GIÁO ÁN RÈN NHÂN CÁCH LỚP NGŨ GIỚI : ĐỨC HIẾU SINH TẬP 1 / 5.
Bài học thứ
2: CÁCH XƯNG HÔ TRONG LỚP HỌC
PHẦN NGHI
LỄ: CÁCH XƯNG HÔ TRONG LỚP HỌC
Trong lớp học,
giảng viên nên xưng hô với học viên bằng cách tự xưng pháp danh của mình, ví dụ
như GIA HẠNH, LIỄU HUỆ…
Ví dụ: - Gia
Hạnh xin mời Sư Cô.
Ví dụ: - Liễu
Huệ dạy theo giáo án của Trưởng Lão Thông Lạc chỉ dạy.
TU
SINH LÀ TU SĨ NỮ:
Nếu tu sinh
là tu sĩ nữ mặc áo Đại thừa, y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết pháp danh,
giảng viên gọi tu sinh này là SƯ CÔ.
Ví dụ: - Gia
Hạnh xin mời Sư Cô.
Nếu giảng
viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: - Liễu
Huệ xin mời Sư Cô Liễu Nhẫn.
Ví dụ: - Xin
mời Sư Cô Liễu Nghĩa.
TU
SINH LÀ TU SĨ NAM:
Nếu tu sinh
là tu sĩ nam mặc áo Đại thừa, không biết pháp danh, giảng viên gọi tu sinh này
là THẦY.
Ví dụ: - Gia
Hạnh xin chào Thầy.
Nếu giảng
viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: - Liễu
Huệ xin chào Thầy Minh Tánh.
Nếu tu sinh
là tu sĩ nam mặc y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết pháp danh, giảng viên
gọi tu sinh này là SƯ.
Ví dụ: - Gia
Hạnh xin chào Sư.
Nếu giảng
viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: - Liễu
Huệ xin chào Sư Minh Nhẫn.
TU
SINH LÀ CƯ SĨ:
Đối với tu
sinh là cư sĩ nam hay nữ, không biết pháp danh, giảng viên gọi chung nhiều người
hay gọi riêng từng người đều dùng từ PHẬT TỬ, hay dùng danh xưng bác, cô…
Ví dụ: - Xin
phật tử cho biết pháp danh để việc xưng hô dễ dàng.
Ví dụ: - Xin
bác cho biết pháp danh để việc xưng hô dễ dàng.
Ví dụ: - Xin
cô cho biết pháp danh để việc xưng hô dễ dàng.
Nếu giảng
viên biết pháp danh của tu sinh thì gọi thêm pháp danh có danh xưng chú, bác,
cô, anh, chị, em, cháu, v.v… để tạo sự thân mật trong danh từ xưng hô của tiếng
Việt Nam.
Ví dụ: - Xin
mời Chú Minh Thiện.
Ví dụ: - Xin
mời Cô Liễu Minh.
Ví dụ: - Xin
mời Bác Liễu Tâm.
Ví dụ: - Xin
mời Anh Tâm Minh.
Ví dụ: - Xin
mời Chị Liễu Minh.
Ví dụ: - Xin
mời Em Liễu Châu.
2- HỌC
VIÊN XƯNG HÔ VỚI GIẢNG VIÊN
Trong lớp học,
học viên xưng hô với giảng viên bằng cách tự xưng pháp danh của mình, ví dụ như
LIỄU THANH, MINH THÀNH…
Ví dụ: -
Thưa Cô, Liễu Thanh xin hỏi.
Ví dụ: -
Minh Thành có điều này muốn xin thưa hỏi Thầy.
GIẢNG
VIÊN NỮ:
Nếu giảng
viên là tu sĩ nữ mặc y áo Đại thừa, y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết
pháp danh, thì học viên gọi giảng viên là SƯ CÔ.
Ví dụ: -
Thưa Sư Cô, Minh Thành xin hỏi.
Ví dụ: - Liễu
Thanh có điều này muốn xin hỏi Sư Cô.
Nếu học viên
biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: -
Thưa Sư Cô Liễu Nhẫn.
Nếu giảng
viên là cư sĩ, không biết pháp danh, thì học viên gọi giảng viên là CÔ.
Ví dụ: -
Thưa Cô, Liễu Hạnh xin thưa hỏi.
Nếu học viên
biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: -
Thưa Cô Từ Hạnh.
GIẢNG
VIÊN NAM:
Nếu giảng
viên là tu sĩ nam mặc y áo Đại thừa thì học viên gọi là THẦY. Hoặc giảng viên
là cư sĩ nam thì học viên cũng nên gọi là THẦY.
Ví dụ: -
Thưa Thầy, Minh Thành xin hỏi.
Nếu học viên
biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: -
Thưa Thầy Minh Nghĩa.
Nếu giảng
viên là tu sĩ nam mặc y vấn Nam tông hoặc Khất sĩ, không biết pháp danh, học
viên gọi là SƯ.
Ví dụ: - Liễu
Thanh xin hỏi Sư.
Nếu học viên
biết pháp danh của giảng viên thì gọi thêm pháp danh.
Ví dụ: -
Thưa Sư Tâm Nhẫn.
3- GIỮ
GÌN OAI NGHI TRONG GIỜ HỌC
Tu sinh phải
có mặt trước giờ học là 5 phút, không được đến trễ giờ học. Khi vào lớp, tu
sinh vào ngay ghế của mình ngồi, không ngồi ghế của người khác. Khi giảng viên
bước vào cửa lớp thì tất cả tu sinh đứng dậy, nghiêm chỉnh hướng về tượng Phật.
Khi giảng viên đứng vào vị trí của mình thì cả lớp làm nghi lễ niệm Phật như đã
trình bày trong phần 1. Sau khi xá chào nhau thì giảng viên mời các tu sinh ngồi
xuống để bắt đầu buổi học.
Trong buổi học,
tất cả tu sinh đều giữ gìn im lặng, không nên nói chuyện riêng. Khi phát biểu ý
kiến hiểu biết của mình về bài học đức hạnh, thì bằng cách xưng hô như sau:
Ví dụ: -
Kính thưa cô (thầy…)! Kính thưa toàn thể tu sinh! Theo Mỹ Linh hiểu đạo đức của
câu hỏi này như sau…
Sau khi tu
sinh trả lời xong thì tất cả tu sinh và giảng viên đồng vỗ tay khuyến khích.
Sau đó, giảng viên tiếp tục gọi tu sinh khác trả lời.
Mỗi khi học
viên trả lời câu hỏi nào trong bài học đều phải đứng dậy, trừ những
người già, tật nguyền không đứng được, giảng viên cho phép ngồi.
Đứng dậy trả
lời là một hành động tôn kính những người có mặt trong lớp học, tôn kính giảng
viên, tu sinh, và nhất là tôn kính hình tượng đức Phật và bài pháp giới luật đức
hạnh mà tất cả tu sinh đều đang học.
Trong kinh
Nikaya có nói về chủ khách, đức Phật không chấp nhận chủ ngồi mà khách đứng nói
chuyện, tiếp chuyện với nhau như vậy là thiếu đạo đức lễ độ.
Một hôm có một
Bà La Môn tên là Ambattha đến chỗ Phật, Ông không ngồi mà đứng, đi qua, đi lại,
lời nói nhát gừng vấn nạn Phật, đức Phật quở trách đó là một hành động thiếu đạo
đức tôn kính. (Kinh Trường Bộ tập I, trang 164)
Nếu đức Phật
ngồi, vị Bà La Môn cũng ngồi một bên thấp hơn, đó là hành động chủ khách ngồi
tôn kính, nhưng khi thưa hỏi một điều gì thì đứng lên hoặc quỳ xuống thưa hỏi,
đó là hành động đạo đức tôn kính Phật và pháp, còn khi đức Phật chưa cho phép
ngồi mà ngồi thưa hỏi là thiếu đạo đức tôn kính.
Các con đọc
kinh Nikaya lướt qua không nhận xét rõ ràng, cho Phật giáo bình đẳng thì
không có đạo đức tôn ti trật tự, nên phát biểu theo tưởng giải của mình mà vô
tình phạm vào nền đạo đức lễ nghĩa văn hoá của Phật giáo thật đáng tiếc! Sự hiểu
kinh sách của các con như vậy là cái hiểu nông cạn, khiến cho người đời sau hiểu
Phật giáo sai lạc. Khi nào các con tu chứng mới hiểu kinh Nikaya đúng nghĩa.
Trong phòng
họp Quốc hội, các dân biểu có ý kiến đều đứng lên phát biểu, không có ai ngồi
mà phát biểu bao giờ, đó là một lễ độ lịch sự mà con người có văn hoá không thể
nào thiếu được.
Nói chung tất
cả các buổi họp từ ấp, xã, huyện, tỉnh và các buổi họp Giáo Hội Phật Giáo, khi
phát biểu đều đứng dậy, đó là một đạo đức văn hoá lễ độ mà loài người đều công
nhận.
Chúng ta nên
xét lại đạo đức lễ nghĩa trong các trường học, nơi mà đào tạo giáo dục con người
có kiến thức và văn hoá, mà lễ nghĩa không có thì biết rằng nền giáo dục đó còn
thiếu khuyết.
Cho nên càng
học lên lớp cao thì học sinh và sinh viên càng thiếu đạo đức tôn trọng thầy, cô
giáo và bạn bè.
Tiểu học,
khi cô giáo bước vào cửa lớp thì trưởng lớp hô: “Nghiêm!” Tất cả
học sinh đều đứng dậy nghiêm chỉnh. Cô giáo đứng vào vị trí của mình liền đưa
tay ra dấu bảo:
- Các em ngồi xuống.
Trung học đệ
nhất cấp và đệ nhị cấp còn giữ lễ nghĩa tôn trọng ấy.
Đại học thì
lễ nghĩa tôn trọng ấy không còn. Như vậy chúng ta biết rằng: nền giáo dục còn
thiếu văn hóa đạo đức lễ độ rất nhiều. Vì thế chúng ta nên lo lắng cho nền giáo
dục hiện tại của đất nước, quê hương. Đạo đức đang xuống cấp.
Chúng ta là
người Việt Nam, không nên dùng Hán Việt chưa được Việt hoá như: Hiền giả, Hiền
huynh, Hiền tỷ, Hiền đệ, Sư huynh, Sư tỷ, Sư đệ, Đạo hữu, Đạo huynh, Tôn giả,
Thánh giả, v.v…
Sau ba tháng
học tập đạo đức hiếu sinh, tu sinh được dự thi lên lớp RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC LY
THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO, bằng những bài luận:
- Tháng
thứ nhất với chủ
đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Ý Hành”.
- Tháng
thứ hai với chủ
đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Khẩu Hành”.
- Tháng
thứ ba với chủ
đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Thân Hành”.
- Sau ba
tháng có kỳ thi tổng kết với chủ đề “Đạo Đức Hiếu Sinh Thân, Khẩu, Ý Hành”.
Kết quả bốn
kỳ thi và có sự ứng dụng thực hành đạo đức đã học trong lớp học, trong đời sống
hằng ngày được giảng viên theo dõi kỹ lưỡng, ghi thành tích học tập của tu sinh
để tuyển chọn lên lớp mới. Nếu tu sinh chưa đủ điểm lên lớp thì được ở lại học
lớp cũ.
TAM QUY có 3
lớp học.
NGŨ GIỚI có
5 lớp học.
THẬP THIỆN
có 10 lớp học.
- “Buổi học của chúng ta chấm dứt ở
đây, xin quý tu sinh đứng dậy chắp tay xá chào nhau rồi chúng ta về thất”.
Nói xong, giảng
viên và tu sinh xá chào nhau rồi giảng viên ra trước, các tu sĩ có hạ lạp cao
và lớn tuổi ra trước, kế tiếp những tu sĩ có hạ lạp thấp ra kế, rồi đến cư sĩ lớn
tuổi ra trước và nhỏ tuổi theo sau.
(Hết giờ học,
giảng viên và tu sinh không nên đọc bài hồi hướng và niệm hồng danh đức Phật.
Chỉ chào nhau rồi theo thứ tự về thất trong sự im lặng và trang nghiêm)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét