GIÁO
ÁN RÈN NHÂN CÁCH LỚP NGŨ GIỚI : ĐỨC HIẾU SINH TẬP 2 / 7.
NHỮNG CÂU
HỎI
Câu hỏi
1: “Thành
Xá Vệ có một người Chiên Đà La sống về nghề đổ phân”. Câu này đạo đức nhân quả
gì?
Câu hỏi
2: “Một
hôm, đức Phật gặp giữa đường, bèn kêu lại”. Hành động đức Phật kêu người Chiên
Đà La lại gần mình là đạo đức gì?
Câu hỏi
3: Người
đổ phân thưa rằng: “Con là người gánh phân ô uế không sạch, không dám lại gần
Ngài”. Câu trả lời này là đạo đức gì?
Câu hỏi
4: Đức
Phật nói rằng: “Ta nay muốn cứu độ cho người”. Lời dạy này là đạo đức gì?
Câu hỏi
5: “Rồi
đức Phật tự thân dắt người gánh phân xuống sông Hằng, tắm rửa sạch sẽ”. Hành động
tắm rửa là đạo đức gì?
Câu hỏi
6: “Và
đưa về tịnh xá Kỳ Hoàn, cho xuất gia làm Sa môn”. Hành động đưa về tịnh xá cho
xuất gia là đạo đức gì?
Câu hỏi
7: “Người
gánh phân thành ra tinh tấn, cần khổ chuyên tâm”. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu hỏi
8: “Nên
chưa đầy một tuần chứng quả A La Hán, thần thông tự tại”. Câu này dạy đạo đức
gì?
Câu hỏi
9: “Lúc
bấy giờ, vua trong nước nghe tin đức Phật độ cho một người Chiên Đà La, lấy làm
bất mãn”. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu hỏi
10: “Cho
rằng làm như vậy ô nhục hàng Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua
chúa”. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu hỏi
11: “Khi
đến chỗ Phật ở thì thấy một vị sa môn uy nghi đức hạnh, ngồi thiền
trên một tấm đá, hiện nhiều thần thông kỳ diệu”. Câu này dạy đạo đức gì?
Câu hỏi
12: Vua
lễ Phật và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị Sa Môn kia danh hiệu là gì, sao lại có
nhiều thần thông như vậy”? Câu này dạy đạo đức gì?
Câu hỏi
13: Đức
Phật bảo rằng: “Đó là người gánh phân, nhờ công hạnh tinh tấn nên chứng được quả
A La Hán”. Lời này dạy đạo đức gì?
Câu hỏi
14: Rồi
đức Phật dùng thí dụ cho vua rõ ràng: “Như ở trong bùn dơ bẩn, có nở một hoa
sen thơm ngát, vậy bệ hạ là người có mắt, bệ hạ có hái lấy đóa hoa kia không?”.
Câu này dạy đạo đức gì?
Câu hỏi
15: Vua
đáp: “Đóa hoa tuy mọc trong bùn lầy mà thơm ngát hương quý, rất nên dùng để
trang sức”. Lời dạy này là đạo đức gì?
Câu hỏi
16: “Còn
bùn lầy dơ bẩn kia thì nên quán xem như là bào thai của bà mẹ, chính tự trong
bào thai mà sinh nở đóa hoa công đức”. Lời dạy này là đạo đức gì?
Câu hỏi
17: “Vị
A La Hán trước làm nghề đổ phân, nay công quả tu hành viên
mãn, chứng được quả đức bất khả tư nghì”. Câu này dạy đạo đức
gì?
Câu hỏi
18: “Trẫm
nay xin nguyện luôn luôn cúng dường mọi món cần thiết không dám để thiếu thốn”.
Câu này dạy đạo đức gì?
TRẢ LỜI
NHỮNG CÂU HỎI
Trả lời
câu hỏi 1:
“Thành xá
vệ có một người Chiên Đà La sống về nghề đổ phân”. Câu này chỉ ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ
NGHIỆP BÁO QUÁ KHỨ.
Vì nhân tiền
kiếp chấp ngã xem mình là hơn hết, thiếu lòng cung kính tôn trọng người khác, lại
thêm mang tính bỏn xẻn, ích kỷ, hẹp hòi, ganh tỵ, hay nói xấu người, nói dối
không thật, nên hiện kiếp sinh làm người trong giai cấp hạ tiện Chiên Đà La,
nghèo khó, bị mọi người khinh chê, không cung kính và tôn trọng.
Muốn không
sinh vào những giai cấp hạ liệt, cùng đinh trong xã hội thì trong hiện kiếp phải
biết sống tôn trọng, cung kính mọi người; phải biết sống khiêm hạ đối với mọi
người. Nhờ sống trong hiện kiếp như vậy, nên những kiếp trong tương lai đều được
mọi người cung kính, tôn trọng và được giàu sang danh vọng.
Người sống với
lòng cung kính tôn trọng người khác, biết hạ mình khiêm tốn chắp tay cúi đầu
chào mọi người trước khi mọi người chào mình, là người biết sống trong ĐẠO ĐỨC
HIẾU SINH NHÂN QUẢ ĐỨC KHIÊM HẠ THÂN HÀNH. Nhờ sống trong đức khiêm hạ cung
kính người khác mà kiếp sau mới sinh làm người trong những giai cấp quý tộc, nhờ
sinh trưởng trong những gia đình có giai cấp quý tộc nên trong hiện kiếp được mọi
người cung kính, tôn trọng và quý mến.
Đoạn kinh
này dạy nhân nào quả nấy, để chúng ta biết đức khiêm hạ là một đức hiếu sinh sống
đối xử biết cung kính và tôn trọng người khác cũng chính là cung kính tôn trọng
mình. Đó là nhân hiện tại, quả hiện tại.
ĐỨC KHIÊM HẠ
HIẾU SINH THÂN HÀNH là một đức hạnh tuyệt vời, lúc nào chúng ta cũng áp dụng
vào đời sống, bất cứ gặp một người nhỏ tuổi cũng như một người già lớn tuổi,
chúng ta đều thực hiện đức khiêm hạ như nhau, thì chúng ta sẽ được mọi người
cung kính và tôn trọng. Có tôn trọng người thì người mới tôn trọng lại mình. Mỗi
người nên sống khiêm hạ, sau này sẽ thành những thói quen có lễ
độ, có văn hóa tốt đẹp.
ĐỨC KHIÊM HẠ
HIẾU SINH THÂN HÀNH là một hành động văn hóa lễ độ rất tuyệt vời mà chỉ có con
người mới thực hiện được, còn con thú dù có thông minh cỡ nào thì cũng không thực
hiện được ĐỨC KHIÊM HẠ HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Trả lời
câu hỏi 2:
“Một hôm,
đức Phật gặp giữa đường, bèn kêu lại”. Hành động đức Phật kêu người Chiên Đà La lại gần mình
là một hành động ĐẠO ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH NHÂN QUẢ KHẨU HÀNH.
Tất cả mọi
người, ai cũng biết đạo Phật là đạo bình đẳng, đạo san bằng giai cấp trong xã hội,
chỉ còn có một giai cấp duy nhất, đó là một giai cấp sống bình đẳng như nhau. Đạo
Phật không những bình đẳng với loài người mà còn bình đẳng đến cả loài cầm thú,
vì tất cả những loài động vật và các loài thảo mộc đều có một sự sống như nhau.
Vì thế đạo Phật là đạo của sự sống. Lúc bấy giờ đức Phật xuất hiện trên đất nước
Ấn Độ, nhưng đất nước Ấn Độ chia ra làm bốn giai cấp rõ rệt như sau:
1- Giai cấp
Sát Đế Lị (Giai cấp cai trị nước).
2- Giai cấp
Bà La Môn (Giai cấp thống trị tinh thần mọi người).
3- Giai cấp
thợ thuyền, thương buôn mậu dịch.
4- Giai cấp
Chiên Đà La (Giai cấp cùng đinh làm thuê, làm mướn, làm nô lệ).
Hành động
kêu gọi những người trong giai cấp cùng đinh, hạ liệt để giúp họ nâng cao giá
trị đời sống làm người. Bởi sự sống của con người thì người giàu cũng như người
nghèo, người làm vua, người làm quan cho đến người làm dân tầm thường cũng như
nhau không có ai hơn ai cả. Cho đến tất cả các loài động vật và thảo mộc trên
hành tinh này đều có một sự sống, mà có sự sống thì phải được hưởng bình đẳng
như nhau.
Cho nên hành
động kêu gọi người Chiên Đà La là đức Phật san bằng giai cấp hạ liệt, cùng đinh
của xã hội Ấn Độ bây giờ. Đó là một hành động ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH NHÂN
QUẢ BÌNH ĐẲNG, xem tất cả sự sống trên hành tinh này như nhau.
Nếu không có
lòng yêu thương thì không bao giờ có sự bình đẳng. Sự bình đẳng tức là đức bình
đẳng. Người ta kêu gọi sự tự do bình đẳng, nhưng người ta không có lòng yêu
thương thì sự tự do bình đẳng đó không bao giờ có. Cho nên tất cả
những đức hạnh khác đều do từ đức hiếu sinh này mà ra. Có đức khiêm hạ thì mới
có đức cung kính và tôn trọng, có đức cung kính và tôn trọng thì mới có lòng yêu
thương chân thật, có yêu thương chân thật thì mới có xả tâm ly dục, ly ác pháp.
Từ đức hạnh này có liên hệ với đức hạnh khác như một chuỗi dài vô tận của đạo đức.
Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Vì thế chúng ta cố
gắng thực hiện cho bằng được đức hiếu sinh như trời, như biển thì tất cả đức đều
hiện rõ nơi chúng ta.
Trả lời
câu hỏi 3:
Người đổ
phân thưa rằng: “Con là người gánh phân ô uế không sạch, không dám lại gần
Ngài”. Câu trả
lời này THIẾU ĐẠO ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH KHẨU HÀNH.
Thường ở đời,
những người có sức mạnh thường tạo thế lực để lãnh đạo trong nước rồi chia ra
làm nhiều giai cấp. Nhưng hiện giờ có hai giai cấp nổi bật nhất là giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị.
Do sự bị trị
lâu dài của giai cấp thống trị, và bị bắt buộc giai cấp bị trị phải tôn trọng
và cung kính giai cấp thống trị, vì thế giai cấp bị trị thường tự xem giá trị của
mình thấp kém không bằng giai cấp thống trị. Cho nên lời nói của
giai cấp Chiên Đà La: “Con là người gánh phân ô uế không sạch, không
dám lại gần Ngài”. Sự phân chia giai cấp đã đánh mất lòng yêu thương
bình đẳng của con người.
Con người ai
cũng có một sự sống như nhau, cũng buồn vui đau khổ, cũng giận hờn phiền não
như nhau, cũng sợ chết và ham sống không khác nhau, cũng ăn uống, cũng đói
khát, cũng lo lắng, cũng sợ hãi như nhau, thế sao lại sống không bình đẳng,
không thương nhau. Hiện giờ tuy đã san bằng giai cấp, nhưng trong tinh thần con
người cũng còn nhiều ranh giới giai cấp như: giai cấp tri thức; giai cấp bình
dân; giai cấp lãnh đạo; giai cấp thường dân; giai cấp nông dân; giai cấp thợ
thuyền; giai cấp thương buôn, v.v…
Tuy thấy
không có sự cách biệt rõ rệt, nhưng hàng rào ranh giới giai cấp vẫn còn e dè,
do bản ngã của con người đối xử với con người ở giai cấp này với giai cấp kia
còn có vẻ khinh chê.
Một người học
giỏi cũng có vẻ khinh chê coi thường người học dở, đó là thiếu đức hiếu sinh
bình đẳng. Người có đức hiếu sinh bình đẳng thì đánh mất tính ngã mạn, tính tự
cao, tự đại của mình. Cho nên càng học giỏi, học cao thì càng bộc
lộ đức khiêm hạ thì học giỏi học cao mới được mọi người quý trọng. Đức khiêm hạ
nằm trong đức hiếu sinh. Người có đức hiếu sinh là có đức khiêm hạ. Có đức
khiêm hạ là có đức bình đẳng. Có đức bình đẳng thì mới san bằng giai cấp trong
xã hội loài người.
Trả lời
câu hỏi 4:
Đức Phật
nói rằng: “Ta nay muốn cứu độ cho người”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH GIÁO
HÓA.
Lời nói yêu
thương của đức Phật đối với giai cấp cùng đinh, hạ liệt thật là tuyệt vời! Lời
nói yêu thương ấy thể hiện đức giáo hóa bình đẳng cao thượng mà không có một
tôn giáo nào có được. Lời nói của Ngài đã đem lại sự sống bình đẳng cho giai cấp
hạ liệt trong xã hội.
Đạo Phật là
một tôn giáo bình đẳng, lấy sự sống của muôn loài làm mốc bình đẳng, tức là
bình đẳng trên sự sống, Vì muốn sống được bình đẳng nên Phật giáo lấy tiêu chuẩn
sống Tứ Vô Lượng Tâm, tức là sống với tâm TỪ, BI, HỶ, XẢ. Vậy sống với tâm từ,
bi, hỷ, xả như thế nào?
Xin quý tu
sinh hãy đọc lại bộ sách “Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm”
thì sẽ biết cách sống.
Sống theo
“Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm” là sống rất đơn giản, chỉ lúc nào cũng thể
hiện lòng yêu thương đối với mọi loài. Cho nên đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín,
suy nghĩ đều lấy đức hiếu sinh làm tiêu chuẩn sống hàng đầu, lúc nào cũng nhớ mọi
người đang thương mình và lúc nào mình cũng đang nhớ thương yêu mọi người, mọi
loài chúng sinh. Có sống được như vậy mới thể hiện đức bình đẳng hiếu sinh.
Người sống
không có giai cấp là người sống với lòng yêu thương chân thật. Xã hội loài người
ai cũng sống được như vậy thì chúng ta không cần kêu gọi bình đẳng, nhưng cuộc
sống vẫn bình đẳng.
Trả lời
câu hỏi 5:
“Rồi đức
Phật tự thân dắt người gánh phân xuống sông Hằng, tắm rửa sạch sẽ”. Hành động tắm rửa là ĐẠO ĐỨC HIẾU
SINH THÂN HÀNH.
Chưa có một
vị thầy nào đưa học trò đi tắm rửa như một người mẹ, đúng là một hành động hiếu
sinh tuyệt vời của một bậc vĩ nhân mà chúng ta khó tìm thấy trên hành tinh
này.
Đức Phật tượng
trưng cho lòng thương yêu, nên mỗi hành động nhỏ nhặt thương yêu nào Ngài cũng
đều không bỏ qua.
Với một người
Chiên Đà La đi gánh phân, thân mình hôi thối, mùi bất tịnh xông ra, thế mà đức
Phật đến nắm tay dắt xuống sông Hằng tắm rửa cho sạch sẽ như dắt một đứa bé
thơ, thì đủ biết tình yêu thương của đức Phật như thế nào đối với mọi người?
Người nào Ngài cũng không bỏ. Cách thức và hành động sống của đức Phật rất gần
gũi với mọi người, Ngài không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, vua quan hay
dân giã Ngài đều đối xử bình đẳng như nhau.
Đối với những
người cùng đinh khốn khổ nghèo đói, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, sinh vào
những giai cấp bị trị, chịu nhiều điều bất công. Đó là do nhân quả đời trước đã
tạo nhân quả ác xấu, ích kỷ, bỏn xẻn, hẹp hòi, hách dịch, kiêu căng, ngã mạn, tự
cao, tự đại, chửi mắng, làm uy, làm quyền, hiếp đáp người khác, nên kiếp này phải
chịu sinh vào những gia đình nghèo khó, giai cấp hạ liệt, v.v…
Cho nên nhìn
nhân hiện tại mà biết quả hiện tại; nhìn nhân hiện tại mà biết quả quá khứ;
nhìn nhân hiện tại mà biết quả tương lai; nhìn quả hiện tại mà biết nhân quá khứ;
nhìn quả hiện tại mà biết nhân hiện tại; nhìn quả hiện tại mà biết nhân
tương lai.
Thấy quả hiện
tại thì biết nhân quá khứ do quá khứ kiêu căng, ngã mạn, cống cao nên hiện tại
sinh làm người ở giai cấp hạ liệt, cùng đinh. Nhưng đủ duyên gặp Phật nên quả
hiện tại Phật giúp đỡ tắm rửa sạch sẽ, dạy phương pháp tu hành chứng quả A La
Hán. Đấy là nhân gặp Phật hiện tại thì quả hiện tại được giải thoát ra khỏi tâm
tham, sân, si. Nhân quyết tâm tu hành hiện tại thì quả hiện tại được giải
thoát.
Cho nên theo
qui luật nhân quả, nếu chúng ta tu tập sai trong hiện tại thì quả trong hiện tại
của chúng ta cũng sẽ không giải thoát. Do phạm giới, phá giới trong hiện tại mà
quả hiện tại bị rối loạn thần kinh. Đó là một chứng cứ rõ ràng, mà không ai chối
cãi được. Cho nên người nào phạm vào giới phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân,
ý thì tu hành thân tâm không thanh tịnh, làm mất thì giờ rất uổng phí, tức là
vi phạm vào giới hạnh độc cư.
Một đời tu
hành chỉ có giữ giới độc cư trọn vẹn 7 tháng và tu tập đúng pháp môn Tứ Niệm Xứ
thì chứng đạo. Thế mà không có ai
làm được, chỉ
có một thời gian ngắn nhất, 7 tháng, mà cả bao nhiêu người trong tu viện lại vi
phạm, thật là quá tệ. Nếu bắt buộc phải giữ độc cư một năm, hai năm 3, 4, 5, 6,
7 năm hay 10 năm thì bảo rằng giữ gìn không nổi vì thời gian dài quá, còn ở đây
chỉ có 7 tháng mà giữ gìn không nổi thì 10 năm làm sao tu nổi với hạnh độc cư.
Nghe tu tập
làm chủ sinh tử ai cũng ham, nhưng đụng đến giới độc cư ai cũng bỏ cuộc. Cho
nên theo luật nhân quả, hiện tại tu đúng thì quả hiện tại sẽ được giải thoát.
Thầy dạy các
con từng bước tu tập, mà các con không làm đúng lời thầy thì kết quả các con phải
gặt lấy không giải thoát. Còn phạm vào giới hạnh độc cư thì làm sao tu hành giải
thoát cho được.
Do không giữ
trọn hạnh độc cư nên hôm nay tu viện chuyển mình vươn lên tạo thành lớp học dạy
đạo đức giới luật, nếu các tu sinh học đạo đức mà không áp dụng thực hành vào đời
sống của mình thì không bao giờ có giải thoát, không giải thoát là do các tu
sinh, chứ không phải do thầy dạy. Các tu sinh có thấy lỗi chưa?
Từ đây đã có
lớp học rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, vậy các tu sinh hãy nỗ lực học
tập và áp dụng những bài học đạo đức vào cuộc sống của mình. Học đến đâu áp dụng
đến đó để huân tập thành một thói quen đạo đức, thì lúc bấy giờ các tu sinh là
đức hiếu sinh và đức hiếu sinh là tu sinh. Chừng đó các tu sinh sẽ thấy sự giải
thoát làm chủ sinh, già, bệnh, chết thật là tuyệt vời mà không có người nào ngờ
được.
Con đường tu
tập này không có ai có thể tu tập cho mình được, chỉ có mình siêng năng hằng
ngày tu tập và áp dụng sống với lòng thương yêu và tha thứ, thì con đường giải
thoát ở tại nơi đó không còn xa nữa.
Trả lời
câu hỏi 6:
“Và đưa về
tịnh xá Kỳ Hoàn, cho xuất gia làm Sa môn”. Hành động đưa về tịnh xá cho xuất gia là ĐẠO ĐỨC
HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Từ một giai
cấp Chiên Đà La bị mọi người xem thường, khinh rẻ, và cũng chính tự những người
trong giai cấp hạ liệt đó, họ vẫn xem thường, khinh rẻ họ. Tự họ bắt buộc họ phải
cung kính và tôn trọng những giai cấp khác, nhất là họ không dám lại gần những
giai cấp kia. Hôm nay được đức Phật nâng lên thành giai cấp lãnh đạo tinh thần
như các vị Sa Môn, khiến cho họ quá sợ sệt và chưa bao giờ họ
dám nghĩ.
Hành động
yêu thương của đức Phật rất tuyệt vời. Dám nhận giai cấp cùng đinh hạ liệt
Chiên Đà La làm đệ tử, thật là bình đẳng không chỗ nói, khiến cho những giai cấp
lục sư Bà La Môn đang lãnh đạo tinh thần toàn dân trong nước đều kinh hãi.
Đạo Bà La
Môn chấp nhận họ là giai cấp lãnh đạo tinh thần. Vì thế, người đạo sĩ Bà La Môn
phải bảy đời truyền thống dòng họ với nhau mới được gọi là Bà La Môn. Đó là
cách thức cha truyền con nối, không để cho người khác xen vào giai cấp lãnh đạo
tinh thần của mình.
Ở giai cấp
cùng đinh, hạ liệt trong xã hội loài người, mà đức Phật đã trợ giúp dạy tu tập
để trở thành một vị A La Hán thì chắc chắn mọi người trên hành tinh này ở nơi
đâu Ngài cũng không bao giờ bỏ người nào cả. Chỉ tùy duyên hóa độ. Riêng đức Phật,
Ngài mong muốn cho tất cả chúng sinh đều tu hành chứng quả A La Hán.
Ngài mong rằng
mọi người đều sống trong giới luật đức hiếu sinh của Ngài để hành tinh này được
bình an, yên ổn, và con đường tu học của Ngài còn phải đi xa hơn, cao hơn là phải
chứng quả giải thoát làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ước nguyện
to lớn của Ngài là tất cả chúng sinh đều thành Phật, nên Ngài mới tuyên bố: “Ta
là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Ngài biết rất rõ pháp
môn của Ngài không phải là pháp môn khó tu, chỉ người tu hành chịu khó hiểu biết
cho tường tận rõ ràng những lời dạy của Ngài. Khi hiểu biết rõ và có sự quyết
tâm từ bỏ các ác pháp, các dục với lòng yêu thương rộng lớn vô bờ bến đối với tất
cả chúng sinh là ngay đó có kết quả giải thoát liền, không phải đợi tu lâu như
xưa nay người ta nghĩ.
Bởi vậy, những
người trí tuệ bén nhạy khi nghe Phật thuyết giảng hiểu biết, liền ngộ một cách
sâu xa, nên liền buông xả sạch. Khi tâm buông xả sạch tức là tâm chỉ còn lòng
yêu thương rộng lớn như trời, như biển. Nhờ có lòng thương yêu rộng lớn như vậy
nên chứng đạo liền. Chứng đạo của Phật giáo chỉ cần hiểu biết rốt ráo các pháp
vô thường, khổ, vô ngã, nhờ hiểu biết như vậy nên buông xả sạch. Buông xả sạch
thì đâu còn tu tập cái gì nữa. Cho nên trong thời đức Phật còn tại thế, khi
nghe Phật thuyết pháp xong là người ta chứng pháp nhãn thanh tịnh, và chẳng bao
lâu chứng quả A La Hán. Đó là một sự nói thật, chứ không phải lừa
đảo mọi người.
Cho nên có
nhiều người nghe hiểu biết mà không buông xả, nên cố gắng tu tập mà không giữ
gìn giới luật nghiêm chỉnh, không giữ trọn hạnh độc cư, nên tu hoài chẳng đi đến
đâu. Thật là tội nghiệp!
Trả lời
câu hỏi 7:
“Người
gánh phân thành ra tinh tấn, cần khổ chuyên tâm”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC TINH CẦN HIẾU
SINH THÂN HÀNH.
Người tu theo Phật giáo chỉ có sự tinh tấn, siêng năng, cần mẫn ngồi lại một mình gạn lọc tâm tư, nếu người nào gạn lọc kỹ lưỡng chỉ trong thời gian ngắn là chứng đạo. Gạn lọc tâm tư tức là quán xét thân tâm. Khi nào thấy tâm không còn bị chướng ngại pháp, lúc nào tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự thì đó mình đã gạn lọc sạch tâm tư.
Tại sao người
gánh phân ngu dốt mà lại tu mau chứng quả A La Hán?
Người Chiên
Đà La là dân nô lệ nên tài sản đâu có gì, chỉ có bản thân, nhưng bản thân cũng
không phải của mình mà của những người chủ, của giai cấp khác. Vì thế người chủ
bảo sao là thân phải làm ngay, không làm thì bị hành hạ. Cho nên khi được đức
Phật cho tu hành thì người hốt phân đâu còn gì để buông xả, mà chỉ còn xả tâm dục
của mình mà thôi, nên khi họ hiểu ra Phật giáo chỉ có XẢ TÂM VÔ LƯỢNG thì ngay
đó là chứng đạo, chứ đâu có tu thiền, tu định gì nhiều mà phải khổ công luyện tập
như các tôn giáo khác. Từ giới sinh định, mà giới luật đức hạnh là pháp xả tâm.
Do xả tâm mà thành tựu thiền định; do xả tâm mà được giải thoát.
Người tu
theo Phật giáo chỉ có tri kiến hiểu biết, tri kiến hiểu biết là giác ngộ được
các pháp vô thường, vô ngã, khổ. Khi ngộ các pháp vô thường, khổ, vô ngã thì biết
tất cả các pháp không có pháp gì là ta, là của ta, là bản ngã của
ta. Hiểu như vậy thì buông xuống dễ dàng và buông xuống sạch. Buông xuống sạch
hết là giải thoát. Cho nên khi buông xuống sạch hết ngay đó không cần phải tu tập
gì nữa. Chỉ có những người không xả tâm mà cứ lo tu tập thiền định để cầu chứng
đạo thì không bao giờ chứng đạo, dù họ có khổ công tu tập, nhưng họ tu tập được
những gì, hay chỉ là những thần thông tưởng để lừa đảo lường gạt người khác mà
thôi?
Vì thế quý vị
hãy nhớ, chỉ có giới luật đức hạnh mới giúp quý vị tu hành giải thoát mà thôi.
ĐỨC TINH CẦN
HIẾU SINH THÂN HÀNH là một đức hạnh siêng năng để xả bỏ tất cả các ác pháp,
mang đến cho chúng ta một tâm ly dục, ly ác pháp. Vậy chúng ta hãy siêng năng
tinh cần học giới luật đức hạnh và áp dụng giới luật đức hạnh vào đời sống hằng
ngày, trong lúc đến lớp học, khi đi khất thực, cũng như lúc ở trong thất.
Trả lời
câu hỏi 8:
“Nên chưa
đầy một tuần chứng quả A La Hán, thần thông tự tại”. Câu này dạy ĐỨC THÀNH QUẢ HIẾU
SINH Ý HÀNH tuyệt vời. Chỉ chưa đầy một tuần lễ mà đã chứng quả A
La Hán đầy đủ thần thông tự tại.
Đúng vậy, đạo
Phật đâu có gì kỳ đặc khó khăn như người ta nghĩ: Tu hành phải trở về bản thể vạn
hữu, phải kiến tánh thành Phật theo Thiền tông Trung Hoa; tu hành là phải có những
năng lực siêu việt như thần thông phép lạ theo Mật tông Tây Tạng; tu hành theo
Phật giáo đâu có gì cao siêu huyền bí như thế giới siêu hình Cực Lạc theo Tịnh
Độ tông. Phật giáo chỉ là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ; chỉ là
tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Nếu tâm ly dục,
ly ác pháp, chỉ còn lại một trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự thì tâm đó
là tâm chứng đạo. Như vậy bảo sao người Chiên Đà La tu hành không mau chứng quả
giải thoát? Tu hành theo Phật giáo có gì đâu, cứ trên Tứ Niệm Xứ quán xét xả hết
dục và ác pháp là tu xong.
Đạo Phật
không tu thiền định mà có thiền định; không tu thần thông mà có thần thông, chỉ
có sống với đúng giới luật đức hạnh hiếu sinh mà ngay đó là thiền định, là thần
thông. Có mà không cần tu tập; có mà không cầu mong. Thật là tuyệt vời!
Trả lời
câu hỏi 9:
“Lúc bấy
giờ, vua trong nước nghe tin đức Phật độ cho một người Chiên Đà
La, lấy làm bất mãn”. Câu
này chỉ rõ nhà vua THIẾU ĐỨC BÌNH ĐẲNG HIẾU SINH.
Phàm người ở
đời, nếu ai hơn mình thì sinh ra ganh ghét, tỵ hiềm; ai thua mình thì sinh tâm
khinh khi, coi rẻ. Tâm trạng người ở đời rất ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ bé. Đó là họ
đã đánh mất đức hiếu sinh nên mới sinh tâm như vậy.
Nhà vua này
cũng không có đức bình đẳng hiếu sinh, nên khi nghe đức Phật nhận người gánh
phân giai cấp Chiên Đà La vào tăng đoàn trở thành một vị Sa Môn thì bất mãn, chống
lại hành động đạo đức bình đẳng của Phật. Nhưng đức Phật đầy đủ trí tuệ hiểu biết
lòng người đắm mê thần thông, thấy ai thị hiện thần thông xem người đó như thần,
như thánh; thấy người nào ngồi thiền 2, 3 ngày không ăn uống là cho họ chứng đạo,
chứng thiền. Một cậu bé người Ấn Độ ngồi thiền 6 tháng không ăn uống, báo chí,
đài điện thông tin làm cả một thế giới đều bị động. Mọi người đều cho đó là
Thánh, Thần, Tiên, Phật, là chứng đạo.
Những trò kỳ
lạ, định tưởng có gì lạ, nhưng những điều đó có làm lợi ích gì cho thế gian này
đâu, thế mà làm náo động?!
Hiện giờ thời
đại khoa học kỹ nghệ hóa, con người tiến bộ về mặt khoa học rất xa, nhưng họ
chưa xác định được: Thần thông từ đâu, do đâu mà con người có được, làm được?
Còn những bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật là những con người như thế nào? Họ sống
ra sao? Ở đâu? Họ làm gì? Một số câu hỏi như vậy chưa có ai trả lời đúng.
Hiện nay người
ta nghĩ rằng: Người nào dù có tôn giáo hay không có tôn giáo hoặc ở trong bất cứ
tôn giáo nào mà thị hiện thần thông biến hóa, tàng hình, biết chuyện quá khứ vị
lai, v.v.. là Thần, Thánh, Tiên, Phật. Những quan niệm ấy là những quan niệm
sai lầm.
Thần, Thánh,
Tiên, Phật là những người sống toàn thiện, họ có đầy đủ trí tuệ nhìn thấu suốt
các pháp thế gian là vô thường, nên họ không còn dính mắc một pháp nào cả, dù
pháp đó nhỏ như hạt vi trần (nhỏ hơn hạt bụi) họ cũng buông xuống sạch. Do
buông xuống sạch các pháp ác và tâm dục nên họ là Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Từ chỗ buông
xả và làm chủ đó, họ thấy mọi người không chịu buông xuống, còn dính mắc các
pháp nên chịu nhiều khổ đau. Vì thế họ rất thương yêu tất cả chúng sinh, vì vô
minh không hiểu biết các pháp vô thường mà cứ tưởng là thường
nên chấp chặt, tranh đua hơn thiệt nên mọi người đều ở trong ác pháp, chịu biết
bao nhiêu sự khổ đau.
Thần, Thánh,
Tiên, Phật chỉ là những người đạt đến lòng yêu thương rộng lớn như trời biển,
chứ không phải như mọi người nghĩ: Thần, Thánh, Tiên, Phật là phải có thần
thông siêu việt.
Nhà vua này
vô minh, còn ở trong tâm tư nhỏ hẹp, không thấy sự sống của mọi người, mọi loài
đều bình đẳng như nhau, nên mới có ý cản ngăn.
Sự bất mãn của
nhà vua đã xác định nhà vua không có đức hiếu sinh bình đẳng, chỉ biết danh dự
của mình. Danh dự của mình là gì? Nếu không có lòng yêu thương thì danh dự đó
chỉ là một ác pháp làm khổ mình, khổ người. Nhiều khi vì danh dự mà giết con
như những cháu gái móc thai, nạo thai; vì danh dự nước này đi chinh phục nước
khác, vì danh dự xóm làng ngày xưa khi các cháu gái có chửa hoang đều bị cột
trên bè chuối thả trôi sông, hoặc bị ném đá cho đến chết. Tất cả những hành động
như vậy thật không có đức hiếu sinh chút nào, khiến cho con người rất khổ
đau.
Trả lời
câu hỏi 10:
“Cho rằng
làm như vậy ô nhục hàng Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua
chúa”. Câu này
nói lên sự cố chấp giai cấp của nhà vua, khiến cho nhà vua đánh mất ĐỨC HIẾU
SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG.
Là con người
ai cũng như ai, cũng sống như nhau thì phải bình đẳng như nhau, phải biết tôn
trọng lẫn nhau. Cho nên dù làm vua, làm quan, làm dân hay bất cứ là một người
nào trong xã hội đều phải sống với đức khiêm hạ. Có đức khiêm hạ thì con người
mới đối xử bình đẳng. Càng làm lớn như làm vua, làm quan thì lại càng sống với
đức khiêm hạ hơn, có như vậy mọi người mới quý mến và kính trọng.
Quý tu sinh
hãy đọc lại lời nói của nhà vua: “Cho rằng làm như vậy ô nhục hàng Sa
môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua chúa”. Nâng một con
người từ giai cấp hạ liệt, cùng đinh lên bằng giai cấp của mình là ô nhục ư! Lời
nói này có đúng không?
Lời nói này
không đúng, nâng một con người ở giai cấp thấp kém lên bằng giai cấp lãnh đạo
tinh thần là làm ô nhục cho đạo Phật thì không có. Đức Phật đã mạnh
dạn phá vỡ hàng rào giai cấp, đem một người ở giai cấp cùng đinh hạ liệt vào đạo
Phật, nên đã biến Phật giáo là một tôn giáo bình đẳng nhất trên thế gian này.
Đức Phật đã
phá vỡ hàng rào giai cấp, nâng giá trị giai cấp hạ liệt cùng đinh Chiên Đà La
lên ngang bằng giai cấp tăng lữ, đã không làm ô nhục cho hàng Sa Môn mà còn làm
tăng giá trị tăng lữ đầy đủ đạo đức nhân bản bình đẳng trong hàng ngũ Sa Môn. Với
việc làm này, đức Phật đã gióng lên tiếng sấm sét, san bằng bốn giai cấp xã hội
nước Ấn Độ vang rền lúc bấy giờ.
Đạo Phật có
một nền đạo đức nhân bản - nhân quả mang đầy đủ đức hiếu sinh, vì thế nó rất
bình đẳng đối với sự sống muôn loài trên hành tinh này. Cho nên vấn đề độ người
gánh phân Chiên Đà La tu chứng quả A La Hán là một việc không thể thiếu được.
Đức hiếu
sinh đi đến đâu thì đức bình đẳng theo đến đó. Đức bình đẳng đi đến đâu thì đức
khiêm hạ theo đến đó. Nhờ đó mà tâm tham, sân, si, mạn, nghi bị diệt trừ. Tâm
tham, sân, si, mạn, nghi bị diệt trừ thì sự giải thoát ở tại đó.
Bởi vậy, người
tu hành đúng chánh pháp của Phật là tu tập rất dễ dàng, không có
khó khăn. Cứ ngay từ giới luật mà sống đúng đức hạnh, nhất là đức hiếu sinh.
Ông Phú Lâu Na có cái nhìn hiếu sinh kỳ lạ, luôn luôn thấy mọi người đều thương
ông, đều tốt, không có người nào ác xấu, vì thế ông chứng quả A La Hán quá dễ
dàng. Còn chúng ta thì sao? Nếu sống với đức hiếu sinh thì làm gì chúng ta
không chứng quả A La Hán.
Trả lời
câu hỏi 11:
“Khi đến
chỗ Phật ở thì thấy một vị Sa môn uy nghi đức hạnh, ngồi thiền trên một tấm đá,
hiện nhiều thần thông kỳ diệu”. Câu này dạy ĐỨC KHÂM PHỤC Ý HÀNH.
Đức Phật biết
rõ tâm niệm của con người, ai ai cũng đều ưa thích thần thông, thấy ai có thần
thông đều cho đó là Tiên, Thánh, Phật, nên rất cung kính và tôn trọng.
Biết được
tâm niệm này, nên đức Phật sai vị tỳ kheo Chiên Đà La ngồi tại cổng ra vào tịnh
xá, chờ nhà vua đến thị hiện những thần thông. Đó là cách thức để nhiếp phục
nhà vua, để làm cho nhà vua phải chấp nhận những người trong giai cấp Chiên Đà
La tu hành. Đức Phật đã hiểu: ngoài thần thông ra không còn pháp nào thuyết phục
được nhà vua.
Đạo Phật
không chấp nhận thần thông, nhưng sao ở đây đức Phật lại cho thị hiện thần
thông. Đức Phật cho thị hiện thần thông là vì không còn pháp nào thuyết phục
nhà vua như trên đã nói. Vì tâm lý của con người, buộc lòng đức Phật phải xử dụng
trò ảo thuật thần thông này để nâng một giai cấp hạ liệt lên ngang bằng với những
giai cấp khác trong xã hội lúc bấy giờ. Một giai cấp mà tất cả mọi người già trẻ
coi rẻ và xem thường.
Muốn san bằng
giai cấp trong xã hội thì có nhiều cách khác nhau: như trong thời đại chúng ta
muốn nâng một giai cấp nào thì những người trong giai cấp đó phải đi học, phải
có tài có đức, phải thi đỗ đạt những cấp bằng cao học: Thạc sĩ, Tiến sĩ và trở
thành những nhà khoa học, những ông bộ trưởng hay những ông nguyên thủ quốc
gia, v.v…
Thời đức Phật
không có trường lớp học hành như hiện nay, và nếu có trường học thì giai cấp
Chiên Đà La cũng không ai chấp nhận cho vào học. Lúc bấy giờ đức Phật muốn nâng
giá trị của giai cấp Chiên Đà La bằng những giai cấp khác, nên Ngài phải đào
luyện người Chiên Đà La tu tập chứng đạo. Đức Phật đã thành công: “Khi
đến chỗ Phật ở thì thấy một vị Sa môn uy nghi đức hạnh, ngồi thiền
trên một tấm đá, hiện nhiều thần thông kỳ diệu”. Nhờ thế từ đây không
ai dám xem thường giai cấp Chiên Đà La, vì giai cấp Chiên Đà La có người tu chứng
quả A La Hán.
Trả lời
câu hỏi 12:
Vua lễ Phật
và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị Sa môn kia danh hiệu là gì, sao lại có nhiều thần
thông như vậy?” Câu
này dạy ĐỨC TÔN TRỌNG KHẨU HÀNH TÀ TÍN.
Khi thấy thần
thông pháp thuật cao cường, kỳ lạ của một vị tỳ kheo ngồi thiền trước cổng tịnh
xá thị hiện, khiến nhà vua quá khâm phục. Đó là một sự cung kính tà tín, thiếu
tri kiến chánh tín mà từ xưa cho đến giờ con người từ Đông sang Tây, từ Nam chí
Bắc vẫn còn duy trì những tà tín này chưa bỏ được. Vì tâm ham mê thần thông mà
con người dễ bị tà đạo lừa đảo.
Ở đây đức Phật
dùng trò ảo thuật này để san bằng giai cấp trong xã hội, làm lợi ích cho con
người, chứ không phải dùng thần thông để lừa đảo nhà vua, mà để cho nhà vua thấy
giai cấp đó cũng thực hiện sự giải thoát như các giai cấp khác trong xã hội loài
người.
Thần thông
chỉ thị hiện như một trò ảo thuật chơi, chứ chẳng có ích lợi gì cho
loài người. Do thiếu tri kiến chánh tín nên mọi người bị một số
tà sư ngoại đạo xử dụng thần thông lừa đảo lường gạt, biến họ thành những đệ tử
như những con chiên ngoan đạo.
Từ những thần
thông này mà trên hành tinh chúng ta có biết bao nhiêu tôn giáo, biết bao nhiêu
giáo chủ xuất hiện ra đời, nhưng họ chỉ để lại sự tang thương cho loài người,
những dấu ấn “TỬ VÌ ĐẠO”, “THÁNH CHIẾN”, “TỰ SÁT” và “KHỦNG BỐ” rất đau lòng.
Con người chết vì tôn giáo không biết bao nhiêu mà kể. Trong các tôn giáo, thần
thông đóng một vai trò rất quan trọng để lừa bịp con người là dễ nhất.
Muốn san bằng
giai cấp trong xã hội nước Ấn Độ, đức Phật đã biết rõ lòng người ham mê thần
thông, nên Ngài xử dụng thần thông để nhà vua không có ý kiến cản trở và ngăn
chặn việc làm của Ngài, để Ngài hóa độ cho những giai cấp hạ liệt cùng đinh
theo tu học.
Ngài xử dụng
thần thông không mê hoặc con người, mà chỉ để giúp con người thoát ra khỏi sự
phân chia giai cấp. Ngài không dạy mọi người lừa đảo người khác bằng thần
thông, mà chỉ dạy con người thực hiện sống đạo đức nhân bản - nhân quả biết
thương nhau; biết tha thứ mọi lỗi lầm của nhau; biết chia sẻ ngọt bùi cay đắng;
biết làm chủ tâm mình để ly dục, ly ác pháp; biết sống thanh thản,
an lạc và vô sự; biết làm chủ sinh, già, bệnh, chết; biết chấm dứt sinh tử luân
hồi; biết không bị người khác lừa đảo bằng những thần thông như: ngồi thiền 5,
7 ngày hoặc 5, 10 tháng không ăn uống, hoặc phóng hào quang, hoặc biết chuyện
quá khứ vị lai hoặc tàng hình, biến hóa, độn thổ, đi trên nước, đi trên hư
không, v.v…
Trả lời
câu hỏi 13:
Đức Phật
bảo rằng: “Đó là người gánh phân, nhờ công hạnh tinh tấn nên chứng được quả A
La Hán”. Lời dạy
này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG.
Từ một người
giai cấp Chiên Đà La hạ liệt cùng đinh vẫn tu hành chứng quả A La Hán dễ dàng,
chỉ công phu chưa đầy một tuần lễ. Rõ ràng pháp Phật tu chứng đạo không phải
khó, chỉ vì người ta không hiểu mới kiến tưởng giải ra pháp môn này, pháp môn
khác, gây thêm nhiều rắc rối trong sự tu hành chứng quả A La Hán.
Thậm chí các
sư thầy, tổ kiến tưởng giải cách thức tu hành bằng những phương pháp ức chế tâm
làm cho hết vọng niệm, hoặc luyện tưởng như thế này, thế khác để tạo
ra thần thông kỳ lạ khiến cho mọi người kinh hãi bái phục. Khi
thấy có người bái phục thì lại tự xưng mình là giáo chủ này, giáo chủ kia để
làm tiền những người nhẹ dạ cả tin, để xây dựng chùa to, Phật lớn như cung điện
vua chúa thời phong kiến, kế đó hô hào đóng góp làm từ thiện để tạo uy tín và
thế lực, để làm tiền tín đồ một cách dễ dàng hơn.
Thật sự giáo
pháp của Phật trong kinh sách Nguyên Thủy còn đó, nhưng các sư thầy không biết
khởi sự tu tập cái gì trước, cái gì sau, nên cứ nghĩ là phải tu thiền định, chỉ
có thiền định là con đường ngắn nhất, hay còn cho pháp môn niệm Phật là pháp
môn dễ tu, hợp thời đại. Nhưng xét lại các pháp môn: từ Thiền tông Trung Hoa,
Thiền Minh Sát Tuệ cho đến pháp môn niệm Phật, Mật tông đều là những pháp môn ức
chế tâm. Cho nên hiện giờ chưa thấy có người nào tu chứng quả A La Hán. Trong
khi quả A La Hán tu hành tinh tấn chưa đầy một tuần lễ là đã chứng đạo. Với một
người ngu dốt như giai cấp Chiên Đà La, giai cấp không được học thức, thế mà tu
chứng đạo một cách dễ dàng.
Trong khi đức
Phật đã tuyên bố rõ ràng: “GIỚI SINH ĐỊNH”. Vậy các sư, thầy lại không học tu tập
GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH, mà lại tu tập THIỀN ĐỊNH. Không tu tập GIỚI LUẬT
thì biết pháp môn gì mà tu tập THIỀN ĐỊNH. Cho nên quý sư thầy tự chế ra pháp
môn tu tập như: Thiền Minh Sát Tuệ, Thiền Trực Chỉ Chơn Tâm Kiến Tánh Thành Phật,
Niệm Phật Trực Vãng Tây Phương, Thiền Bá Trúc Cơ, Thiền Đốn Ngộ, Thiền Xuất Hồn,
Thiền Vô Vi, Thiền Nhĩ Căn Viên Thông, Thiền Công Án… Khi tu hành chưa chứng đạo
thì biết pháp gì mà chế ra để tu THIỀN ĐỊNH và NIỆM PHẬT.
Thiền tông,
Mật tông, Tịnh Độ tông tu tập là pháp kiến tưởng giải của các tổ sư, những pháp
môn ấy không nói lên được những giáo điều của Phật giáo nguyên thủy nào cả, nên
được xem nó là ngoại đạo. Còn có một số sư thầy lấy pháp môn TỨ NIỆM XỨ mổ xẻ
ra chia manh, xẻ mún ra làm nhiều pháp như: trường thiền QUÁN THÂN, trường thiền
QUÁN THỌ, trường thiền QUÁN TÂM và trường thiền QUÁN PHÁP.
Pháp môn TỨ
NIỆM XỨ chỉ là một pháp môn duy nhất, không được chia cắt ra làm nhiều phương pháp
như các sư thầy Nam tông; TỨ NIỆM XỨ là pháp môn CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC để nhiếp
phục tham ưu trong cuộc sống hằng ngày; là pháp môn giữ gìn giới luật ly dục,
ly ác pháp hoàn toàn, chứ đâu phải ngồi ức chế tâm như Thiền Đông Độ “chẳng niệm
thiện niệm ác”, hay Tịnh Độ tông “thất nhựt nhất tâm bất loạn
chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật”.
Các sư thầy
Nam tông cũng biến pháp môn TỨ NIỆM XỨ của Phật trở thành pháp môn Thiền tông
Trung Hoa và Tịnh Độ tông niệm Phật.
Từ ham mê thần
thông dẫn dắt các sư thầy, tổ đi sai lạc con đường tu tập của Phật giáo, nên thảo
nào 25 thế kỷ trôi qua chẳng có người tu chứng quả A La Hán. Thật là đáng trách
thay!
Trả lời
câu hỏi 14:
Rồi đức
Phật dùng thí dụ cho vua rõ ràng: “Như ở trong bùn dơ bẩn, có nở một hoa sen
thơm ngát, vậy bệ hạ là người có mắt, bệ hạ có hái lấy đóa hoa kia không?”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH
KHẨU HÀNH BÌNH ĐẲNG TÔN TRỌNG.
Giai cấp của
con người được phân chia ra nhiều thành phần giai cấp, đều do con người. Chính
con người làm ra giai cấp, chứ không phải giai cấp làm ra con người, con người
chỉ có một giai cấp, đó là giai cấp sống, vì thế ai cũng sống như nhau. Cho đến
những loài vật có hình dạng khác nhau, nhưng cũng sống như nhau. Cho nên giai cấp
sống là giai cấp bình đẳng, từ loài vật cho đến loài người đều sống
như nhau.
Con người,
các loài động vật và thảo mộc được sinh ra đều không có người nào, loài động vật
nào và loài thảo mộc nào xấu cả. Người, vật và thảo mộc nào được sinh ra cũng đều
là tốt cả, nhưng vì nghiệp thiện ác của nhân quả nên có hình tướng khác nhau,
tâm tính khác nhau, giàu sang nghèo hèn khác nhau, uy quyền quan tước khác
nhau, ăn uống khác nhau, thực phẩm khác nhau, v.v…
Đức Phật
khéo ví dụ: Giai cấp Chiên Đà La như bãi sình lầy, nhưng trong đó con người sẽ
vươn lên như những hoa sen thơm ngát. Như vậy giai cấp do con người tự đặt ra
cho con người. Hầu hết con người vì theo nghiệp nhân quả mà không chịu chuyển
biến thay đổi nhân quả nên chịu nằm dưới bùn nhơ hôi thối; còn những người nào
không chấp nhận cuộc sống theo nghiệp lực nhân quả bùn nhơ hôi thối thì chuyển
đổi nhân quả vươn lên trở thành những hoa sen thơm ngát mùi hương.
Hiện giờ
chúng ta đều sống trong nghiệp lực của mình: làm theo nghiệp lực, vui theo nghiệp
lực, khổ đau theo nghiệp lực, bệnh tật theo nghiệp lực, sống chết theo nghiệp lực,
thương yêu theo nghiệp lực, sân giận buồn phiền theo nghiệp lực; đi, đứng, nằm,
ngồi theo nghiệp lực; nói, nín, ăn, ngủ theo nghiệp lực, v.v… Vì thế
mà phải chịu khổ muôn đời.
Trong cuộc đời
này chỉ có những người được giác ngộ theo bốn chân lý của Phật giáo mới không
chấp nhận sống theo nghiệp lực nhân quả, mà sống theo giới luật đức hạnh của Phật
giáo, nên làm thay đổi nghiệp lực. Làm thay đổi nghiệp lực là sống không theo
nghiệp lực mà sống theo đức hiếu sinh; không vui theo nghiệp lực mà vui theo đạo
đức hiếu sinh; không đau khổ theo nghiệp lực mà ngăn và diệt đau khổ theo đạo đức
hiếu sinh; không bệnh tật theo nghiệp lực mà đẩy lui bệnh tật theo đạo đức hiếu
sinh; không thương yêu theo nghiệp lực mà thương yêu theo đức hiếu sinh; không
sân giận buồn phiền theo nghiệp lực mà ly dục, ly ác pháp theo đức hiếu sinh;
không đi, đứng, nằm, ngồi theo nghiệp lực mà đi, đứng, nằm, ngồi theo pháp môn
tĩnh giác chánh niệm đức hiếu sinh; không nói, nín, ăn, ngủ theo nghiệp lực mà nói,
nín, ăn, ngủ theo pháp môn tĩnh thức đức hiếu sinh, v.v…
Nhờ sống
đúng giới luật đức hạnh hiếu sinh của Phật ở trên, nên bãi sình lầy hôi tanh
nghiệp lực nhân quả nở ra những hoa sen thơm ngát mùi hương. Đó
là những ví dụ cụ thể để chúng ta thấy rất rõ ràng: chỉ có đạo đức của Phật
giáo mới chuyển đổi được nghiệp lực nhân quả, ngoài giới luật đức hạnh ra không
có pháp môn nào chuyển được.
Trả lời
câu hỏi 15:
Vua đáp:
“Đóa hoa tuy mọc trong bùn lầy mà thơm ngát hương quý, rất nên dùng để trang sức”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU
SINH KHẨU HÀNH MINH MẪN.
Nhà vua phải
công nhận lời đức Phật dạy là đúng: Dù là những người sống trong giai cấp nào,
nhưng khi đến với đạo Phật thì chỉ còn một giai cấp bình đẳng ngang nhau mà
thôi. Đối với đạo Phật, giai cấp cùng đinh hạ liệt và giai cấp vua chúa khi đến
với đạo Phật thì hai giai cấp đó chỉ xem như nhau.
Trong đạo Phật
chỉ thuần có một giai cấp sống được cung kính và tôn trọng như nhau. Vì thế từ
con người cho đến các loài động vật và cỏ cây, đất đá, núi sông, không khí, thời
tiết, mưa nắng, gió bão, v.v.. đều được yêu thương bình đẳng như nhau.
Bởi sự sống
trên hành tinh này là sự sống nương tựa vào nhau, cái này đau khổ thì cái kia
đau khổ, cái này an vui thì cái kia an vui. Nếu không có nước và
không khí thì con người và muôn vật không thể sống; nếu không có cỏ cây, đất đá
thì con người và các loài động vật không thể sống được; nếu không có các loài động
vật thì con người cũng không thể sống được; nếu không có người này nương tựa
vào người kia thì con người cũng không thể sống được.
Cho nên cuộc
sống này là cuộc sống phải thương yêu nhau, chỉ có đức hiếu sinh mới đem lại sự
bình an trên hành tinh này.
Đạo Phật ra
đời đem lại cho loài người Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm là bốn đức hạnh rộng
lớn vô cùng, để mang lại sự sống trên hành này, một sự sống bình an cho muôn
loài. Nếu không có bốn đức này thì cuộc sống của muôn loài sẽ chịu khổ đau vô
cùng, vô tận.
Bốn đức ấy
là: TỪ, BI, HỶ, XẢ, nếu ai sống trên thế gian mà sống đủ bốn đức này thì không
còn khổ đau nữa. Và vì vậy thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc.
Đức hiếu
sinh là một đức hạnh gồm đủ bốn đức Từ, Bi, Hỷ, Xả. Cho nên hôm nay chúng ta tu
học giới thứ nhất của Phật giáo: KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNG SINH. Không nên giết
hại chúng sinh, đó là đức hiếu sinh. Một đức hạnh đem lại sự
bình an cho nhân loại. Vậy chúng ta là những người có đầy đủ phước báu lớn nên
hôm nay mới có cơ hội học tập và rèn luyện nhân cách để thực hiện một kiếp người
ra khỏi bốn sự khổ đau: sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.
Đức hiếu
sinh đi đến đâu sẽ đem đến sự an vui cho mình, cho người và cho muôn loài vật đến
đó. Quý tu sinh có tin điều này không?
Quý tu sinh
cứ thực hiện đi thì sẽ thấy kết quả ngay liền. Đạo Phật không có tu tập chi nhiều,
chỉ có bấy nhiêu đó mà thôi, hãy sống đi rồi sẽ biết lời dạy này không dối người:
“TÌNH THƯƠNG LÀ ĐỆ NHẤT PHÁP GIẢI THOÁT”.
Trả lời
câu hỏi 16:
“Còn bùn
lầy dơ bẩn kia thì nên quán xem như là bào thai của bà mẹ, chính tự trong bào
thai mà sinh nở đóa hoa công đức”. Lời dạy này là ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH CHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ”.
Đúng vậy,
nhân quả nghiệp báo chỉ là cái nôi để sản sinh ra những bậc A La Hán, nếu chúng
ta biết cách chuyển đổi nhân quả thì quả A La Hán không phải khó khăn. Chuyển đổi
nhân quả chỉ có giới luật đức hạnh, vì giới luật đức hạnh là
thiện pháp. Cho nên thiện pháp mới chuyển đổi ác pháp, tức là lấy thiện chuyển
ác. Đó là một điều xác định đúng, không còn có ai dám phủ nhận.
Hiện giờ mọi
người ai cũng đang ở trong cái nôi nghiệp lực nhân quả, đang quay cuồng bị nghiệp
lực sai khiến, đang bị điều khiển. Con người chỉ là những kẻ nô lệ cho nghiệp lực
nhân quả. Hiện giờ chưa có một người nào làm chủ, điều khiển lại nghiệp lực
nhân quả này được.
Nhờ theo Phật
giáo, hôm nay chúng ta may mắn được tham dự lớp học NGŨ GIỚI rèn luyện nhân
cách đạo đức hiếu sinh để chuyển hóa nhân quả nghiệp lực, để làm chủ nghiệp lực
nhân quả, để thoát ra cảnh nô lệ của nghiệp lực nhân quả, để thoát ra cảnh làm
tay sai cho nhân quả nghiệp lực.
Sau khi tham
dự lớp học này, người thông minh hiểu biết liền áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống
hằng ngày để thoát ra qui luật nhân quả, để chuyển đổi những quả khổ đau thành
cuộc sống hiện tại an vui và hạnh phúc.
Lớp học này
chỉ chuyên ròng học đạo đức hiếu sinh. Hơn ba tháng nay, nếu mọi người siêng
năng học tập và áp dụng ngay vào cuộc sống hằng ngày thì kết quả
sẽ vô cùng mỹ mãn, và khi mãn khóa lớp đạo đức hiếu sinh này thì chúng ta lại
tiếp tục học lên lớp thứ hai: ĐỨC LY THAM TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO.
Đó là chặng
đường học đạo đức thứ hai của chúng ta. Nếu chặng đường thứ nhất chúng ta chưa
hoàn chỉnh được đức hiếu sinh, tức là chưa áp dụng thực hành lòng yêu thương đối
với sự sống hằng ngày trên hành tinh này, để tâm ly dục, ly ác pháp, thì chặng
đường thứ hai chúng ta tu học chỉ còn là học lý thuyết suông, và như vậy thì rất
uổng phí thời gian, không ích lợi nhiều. Mỗi chặng đường tu học là một sự thâm
nhập vào giới luật đức hạnh để chuyển hóa nhân quả nghiệp báo.
Chúng ta
sinh ra từ trong một bào thai nghiệp lực nhân quả bất tịnh, ô uế, hôi thối. Nếu
không có giới luật đức hạnh của Phật giáo thì làm sao chuyển nổi những nghiệp
báo nhiều đời, nhiều kiếp, nó đã trở thành một sức lực mạnh mẽ vô cùng. Cho nên
chúng ta thấy mọi người sống chung quanh chúng ta đang bị nó sai khiến: Nó bảo
người ta bệnh tật là người ta bệnh tật; nó bảo người ta chết là người ta chết;
nó bảo người ta sợ hãi là người ta sợ hãi; nó bảo người ta phiền não là người
ta phiền não; nó bảo người ta khóc là người ta khóc; nó bảo người cười là người
ta cười; nó bảo người ta ăn là người ta ăn; nó bảo người
ta không ăn là người ta không ăn; nó bảo người ta tức giận là
người ta tức giận; nó bảo người ta nói dối là người ta nói dối; nó bảo người ta
giết chúng sinh ăn thịt là người ta giết chúng sinh ăn thịt; nó bảo người ta mắng
chửi vợ con là người ta mắng chửi vợ con; nó bảo người ta hút thuốc lá, thuốc
lào, uống rượu, cờ bạc, cá cược là người ta hút thuốc lá, thuốc lào, uống rượu,
cờ bạc, cá cược; nó bảo người ta đánh giết nhau là người ta đánh giết nhau,
v.v…
Cho nên nghiệp
lực nhân quả sai bảo làm cái gì thì mọi người đều làm theo, không ai dám cãi lại.
Chỉ có những người học đạo đức hiếu sinh như chúng ta thì nó không sai bảo được.
Vì chúng ta không làm theo nghiệp lực mà chuyển đổi nghiệp lực, khiến nó làm
theo chúng ta. Chúng ta bảo nó làm cái gì thì nó làm theo cái nấy, nó không bao
giờ dám cãi lại chúng ta. Bấy giờ chúng ta đã làm chủ nhân quả. Nếu chúng ta
không tu học đạo đức hiếu sinh thì chúng ta làm tay sai cho nhân quả, còn học đạo
đức hiếu sinh thì chúng ta làm chủ nhân quả nghiệp báo.
Cho nên nó bảo
chúng ta sợ hãi là chúng ta không sợ hãi; nó bảo chúng ta phiền não là chúng ta
không phiền não; nó bảo chúng ta khóc là chúng ta không khóc; nó bảo người cười
là chúng ta không cười; nó bảo chúng ta ăn là chúng ta không ăn; nó bảo chúng
ta không ăn là chúng ta ăn; nó bảo chúng ta tức giận là chúng ta không tức giận;
nó bảo chúng ta nói dối là chúng ta không nói dối; nó bảo chúng ta giết chúng
sinh ăn thịt là chúng ta không giết chúng sinh ăn thịt; nó bảo chúng ta mắng chửi
vợ con là chúng ta không mắng chửi vợ con; nó bảo chúng ta hút thuốc lá, thuốc
lào, uống rượu, cờ bạc, cá cược là chúng ta không hút thuốc lá, thuốc lào, uống
rượu, cờ bạc, cá cược; nó bảo chúng ta đánh giết nhau là chúng ta không đánh giết
nhau, v.v…
Học giới luật
đức hạnh lợi ích như vậy, chúng ta hãy cố gắng học tập để chuyển đổi nhân quả
nghiệp báo xấu; để trở thành lòng thương yêu rộng lớn như trời biển; để đem lại
hạnh phúc an vui cho muôn loài, cho hành tinh một màu xanh tươi thắm.
Trả lời
câu hỏi 17:
“Vị A La
Hán trước làm nghề đổ phân, nay công quả tu hành viên mãn, chứng được đạo
quả bất khả tư nghì”. Câu
này dạy KẾT QUẢ ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, Ý HÀNH, THÂN HÀNH.
Từ một người
giai cấp Chiên Đà La chẳng ra gì, chỉ có siêng năng cần mẫn tu tập thực hiện giới
luật đức hạnh chưa đầy bảy ngày mà chứng quả bất khả tư nghì. Thật là tuyệt vời!
Đạo Phật
không phân biệt người giàu sang, người nghèo hèn; không phân biệt giai cấp nào
cả, dù vua chúa, thứ dân; không phân biệt người biết chữ hay người không biết
chữ, miễn sao người nào đến với đạo Phật phải siêng năng, cần mẫn tu tập, giữ
gìn giới luật đức hạnh nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả,
thì ngay trên giới luật đức hạnh đó họ đã chứng đạo vô lậu A La Hán liền.
Người Chiên
Đà La là người không biết chữ, vậy mà tu hành chứng đạo nhanh chóng như vậy là
nhờ giữ gìn giới luật, sống đúng đức hạnh nghiêm chỉnh. Cho nên sự tu chứng của
người Chiên Đà La là một bằng chứng cho chúng ta biết đạo Phật tu hành không
khó khăn, người nào tu hành cũng đều chứng đạo cả.
Người đời
sau không biết giới luật là pháp môn tu chứng đạo, nên cứ mãi
lo nhiếp tâm diệt trừ vọng niệm, tu tập thiền định, khi mà giới luật đức hạnh
chưa nghiêm chỉnh mà tu tập thiền định là tu tập sai, tu tập vào thiền tưởng.
Tu tập thiền tưởng thì không bao giờ chứng quả A La Hán được, vì đó không phải
là pháp môn của Phật giáo.
Trả lời
câu hỏi 18:
“Trẫm nay
xin nguyện luôn luôn cúng dường mọi món cần thiết không dám để thiếu thốn”. Câu này dạy ĐỨC CUNG KÍNH HIẾU
SINH CÚNG DƯỜNG KHẨU HÀNH.
Lời nói cung
kính tôn trọng của nhà vua là giai cấp thống trị đã tuyên bố như vậy thì giai cấp
Chiên Đà La được nâng lên ngang bằng như những giai cấp khác trong xã hội. Chỉ
có Phật giáo mới đem lại sự bình đẳng cho mọi người.
Người giữ
gìn giới luật nghiêm chỉnh, sống đời đức hạnh là chuyển sạch nhân quả, nên phước
báu vô lượng, ở đâu từ trường thiện cũng phủ trùm nơi đó. Cho nên cơm ăn, áo mặc
không thiếu.
Người tu
hành phạm giới, phá giới thì phước báu không có, nên không được mọi người cung
kính tôn trọng, dù cho có làm đến chức vụ gì, dù có học hành đỗ Thạc sĩ, Tiến sĩ,
nhưng giới luật vi phạm thì mọi người cũng không cung kính tôn trọng.
Cho nên quả
vị A La Hán là quả vị của kết quả giới luật giữ gìn nghiêm chỉnh, chứ không phải
kết quả của thiền định. Người tu hành theo Phật giáo hiện giờ tu sai pháp,
không đúng như Phật dạy, nên thảo nào tu mãi mà không chứng quả giải thoát được.
Tu như vậy rất
uổng phí một đời, một kiếp người, phí công vô ích, thật đáng thương thay! Tiếc
thay!
Các tu sinh
hãy lưu ý điều này để đừng lầm lạc trên đường tu hành. Phải cố gắng sống đời đức
hạnh giới luật cho thật nghiêm chỉnh thì quả vô lậu A La Hán sẽ không phụ công
lao tu hành của các tu sinh.
Ước mong rằng lớp học NGŨ GIỚI của chúng ta tất cả tu sinh đều chứng quả giải thoát, không còn ai ở lại.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét