333-RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH: BÀI LÀM 6
ĐOẠN 6: “Ngày lại ngày qua đi, O đã
tạm quên đi chuyện đau lòng giữa rẫy, em vẫn cắp sách tới trường và hồn nhiên
vui đùa với bao bạn bè cùng trang lứa. Thế nhưng cái bụng thì cứ ngày một to
lên và mọi người trong gia đình thì đều nghĩ rằng do em đến tuổi dậy thì nên mập
lên mà thôi. Cho đến một ngày, người chị dâu đưa em đi khám ở Trung tâm y tế
huyện thì mới vỡ lở rằng cái thai đã thành hình được 7 tháng”. Câu này
dạy đạo đức gì?
ĐÁP ÁN: Nhân Quả Diễn Biến Theo Quy Luật
Vô Thường.
GIẢI
TRÌNH ÁN: Diễn
biến theo quy luật nhân quả, nỗi khổ đau bị cướp mất tuổi thơ và đời người con
gái chưa nguôi thì lại xảy đến bụng mang dạ chửa, thật là một điều xấu hổ không
thể nào che dấu được.
Một người mẹ
16 tuổi không chồng mà có chửa, rồi đây sinh con ra đời biết cha
nó đó nhưng ai nhận là cha của cháu bé. Thật là khổ đau trăm bề, nói ra không
nên lời, nói ra chỉ bằng nước mắt, nói ra chỉ bằng sự uất hận nghẹn ngào, nghĩ
lại thân phận mình thật là đau khổ.
Ai đã làm ra
nông nỗi này! Ai đã đem một tai họa không lường cho tuổi trẻ thơ phải gánh chịu!
Vậy ai? Trời hay người?
Trách trời
ư! Trách người ư! Không! Không!!! Tất cả đều do nhân quả, nhưng nói đến nhân quả
là phải nói đến mỗi cá nhân con người. Chính vì mỗi cá nhân con người tạo ra sự
ác, sự khổ đau cho tự chính mình, chứ không có ai làm cho mình đau khổ cả. Vì vậy
trách trời sao được, Trời có làm khổ cho mình đâu. Chỉ có trách mình, vì chính
mình sống không làm những điều thiện, nên hôm nay phải gánh chịu những hậu quả
do mình.
Con người vì
vô minh, không trí tuệ, không hiểu biết, có mắt như mù, nên chạy theo ngũ dục lạc,
nghĩ tưởng các pháp trên thế gian này là có thật, là của mình nên cố hưởng thụ,
do cố hưởng thụ nên tạo ra nhiều ác pháp, do tạo ra nhiều ác pháp nên đời sống
thiếu đạo đức, đời sống thiếu đạo đức thì con người phải chịu nhiều khổ đau. Nếu
con người không biết dừng thì sự khổ đau lại tăng lên ngút ngàn.
Vì thế muốn
cho đời sống không đau khổ thì con người phải biết xây dựng cho
mình một nền đạo đức nhân bản - nhân quả, để từ đó mọi người được học tập đạo đức.
Nhờ có học tập đạo đức thì những ác pháp không còn. Ác pháp không còn thì những
tệ nạn xã hội sẽ chấm dứt, con người sẽ không còn sống trong khổ đau nữa.
Đạo đức
không phải từ trên trời rơi xuống; không phải do một bậc vạn năng tạo hóa nào
ban cho con người; cũng không phải do một đấng Giáo chủ, một đấng Chí tôn, hay
một vị thần tiên nào dạy chúng ta đạo đức đó, mà chính con người của chúng ta từ
người này nối tiếp đến người kia vạch lần theo hướng thiện pháp không làm khổ
mình, không khổ người và không khổ tất cả chúng sinh.
Trước trước
đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ những người cổ xưa đã có những hành động đạo đức
nhân bản - nhân quả, nhưng nó chưa hoàn chỉnh và còn bị pha trộn nhiều triết lý
khô khan ngoài sự sống con người. Nhất là nó pha trộn những tư tưởng mê tín, dị
đoan, lạc hậu, ảo tưởng, ảo giác, huyền thoại thần thánh, ma quỉ v.v… Từ những
tư tưởng đó rồi sinh ra các tôn giáo đa thần, nhất thần. Trong những tư tưởng gốc
của các tôn giáo lại sinh ra thêm những kiến giải, tưởng giải, triết lý, rồi dựa
vào khoa học lý luận những ảo tưởng, ảo giác khác biệt để thành lập ra nhiều
tôn giáo, nhiều đảng phái khác biệt nhau. Từ các tôn giáo khi chạy theo danh lợi
lại chia ra làm nhiều hệ phái khác nhau nữa. Họ đã chia manh xẻ
mún ý thức hệ của con người tan nát, nhưng con người khổ vẫn là con người khổ,
khổ từ đời này sang đời khác. Cho nên càng nhiều ý thức hệ, càng nhiều tôn giáo
thì con người càng nhiều khổ đau. Có những người đã bỏ hết cuộc đời để theo tôn
giáo, hầu mong thoát khổ, nhưng nào có được những gì, khổ lại chồng thêm khổ.
Một lần nữa
đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người bị phủ trùm những tư tưởng thiếu ánh
sáng chân lí nên cuộc đời con người khổ lại còn khổ hơn.
Đức Thích Ca
Mâu Ni xuất hiện ra đời trên đất nước Ấn Độ cố gắng quét sạch những tư tưởng
triết lý ảo tưởng, ảo giác, mê tín, lạc hậu, để thay thế bằng bốn chân lý: KHỔ
ĐẾ, TẬP ĐẾ, DIỆT ĐẾ VÀ ĐẠO ĐẾ. Khổ đế là để chỉ cho con người biết đời sống con
người là khổ đau; tập đế là chỉ cho con người biết nguyên nhân sinh ra muôn vàn
thứ đau khổ; diệt đế là chỉ cho con người biết trạng thái tâm bất động trước
các ác pháp và các cảm thọ (tâm thanh thản, an lạc và vô sự); đạo đế là chỉ cho
con người biết một chương trình giáo dục dạy đạo đức nhân bản - nhân quả sống
không làm khổ mình, không làm khổ người. Chương trình giáo dục đào tạo này cốt
là để rèn luyện nhân cách con người, để mỗi người phải thấu hiểu bổn phận
và trách nhiệm của con người là phải chấp nhận đem lại sự sống sự bình an và hạnh
phúc cho mình, cho người và cho tất cả sự sống trên hành tinh này, chứ không
cho riêng ai cả.
Chính những
tệ nạn xã hội: trộm cắp, cướp của, giết người, mãi dâm, hiếp dâm, xì ke ma túy,
rượu chè, hút chích, thuốc phiện, tai nạn giao thông xảy ra khắp nơi trên toàn
cầu là do nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, không làm khổ
người chưa có người thắp sáng và tiếp nối. Ngọn đuốc đạo đức nhân bản ấy đã được
đức Thích Ca Mâu Ni soi rọi một cách rõ ràng. Bởi đức Thích Ca Mâu Ni dám nói mạnh,
nói thẳng những cái sai của loài người, của người xưa, nhất là của các tôn
giáo.
Như chúng ta
đã biết, đâu phải cái gì của người xưa đều đúng hết. Người xưa cũng chỉ là con
người như chúng ta ngày nay mà thôi, bởi vậy những tư tưởng sai trong thời nào
cũng có. Có đúng như vậy không quý vị?
Cho nên
chúng ta phải sáng suốt nhận định và mạnh dạn dẹp bỏ những cái sai, những cái
sai là những cái làm đau khổ cho mình, đau khổ cho người và làm đau khổ cho tất
cả chúng sinh; còn những cái không sai là những cái đem lại sự an vui và hạnh
phúc cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Những cái đó chúng ta nên dựng
lại và gọt dũa làm cho nó hoàn mỹ hơn, tốt đẹp hơn để áp dụng
vào cuộc sống con người, khiến cho chúng ta ngày ngày sống trong sự bình an,
yên vui và hạnh phúc.
Cho nên mọi người hãy đoàn kết siết chặt vòng tay, cùng nhau xây dựng cho nhân loại một nền đạo đức nhân bản - nhân quả mà tổ tiên, ông cha chúng ta từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc đã để lại cho chúng ta một gia tài đạo đức đồ sộ vĩ đại, nhưng nó còn đang dở dang. Vì thế chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận thanh lọc lại những gì đúng và những gì không đúng.
Đúng là đúng như thế nào? Và sai là sai như thế nào?
Khi đặt ra
câu hỏi như vậy thì phải có câu trả lời thích đáng. Đúng là thiện pháp, là đạo
đức, là khoa học. Nếu đúng thiện pháp, đúng đạo đức và đúng khoa học thì những
hành động và việc làm không mơ hồ trừu tượng, không mê tín dị đoan, không làm
khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sinh. Còn ngược lại
những điều nói trên là thiếu thiện pháp, là thiếu đạo đức, là phản khoa học,
nên thường mơ hồ trừu tượng, mê tín dị đoan, v.v…
Dù cho tất cả
những điều này là một truyền thống lâu đời với những tư tưởng văn hóa mê tín, lạc
hậu đã làm hao tốn tiền của, giết hại sinh linh để cúng tế, nó đã trở thành một
phong tục tập quán thường làm khổ mình, làm khổ người, nhưng tổ
tiên, ông bà của chúng ta không bỏ được.
Đứng trước
những phong tục tập quán phi đạo đức nhân bản - nhân quả, phản khoa học thì
chúng ta phải mạnh dạn chỉ thẳng, nói thẳng, không nhân nhượng. Dù chính đó là
một truyền thống lâu đời nhất của đất nước, dân tộc, nhưng khi nó là văn hóa lạc
hậu, mê tín gây nhiều phiền phức tốn hao và làm khổ mọi người, mọi vật thì cần
nên dẹp bỏ. Nhưng dẹp bỏ phải khéo léo, thiện xảo, có nghĩa làm cho từ mê tín
biến trở thành chánh tín, đạo đức; từ lạc hậu mơ hồ trở thành tiến bộ khoa học,
trong những điều đó cũng có điều không cần thay đổi mà phải bỏ hẳn.
Chính những
phong tục tập quán mê tín, lạc hậu trong dân gian cộng thêm những kiến giải, tưởng
giải ảo giác, mơ hồ, trừu tượng của các hệ phái tôn giáo khác nhau trên hành
tinh này như giáo lý ảo tưởng của Đại thừa, Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông,
và giáo lý kiến giải của Nam tông, thần học Công giáo tạo thành một tấm chắn
bình phong làm cho nền đạo đức nhân bản - nhân quả dạy người có một đời sống
cao thượng, đẹp đẽ, luôn đem lại sự bình an, yên vui cho mọi người thế mà không
triển khai được, mà còn bị dìm mất, vì vậy mà loài người chịu quá nhiều khổ
đau.
Trên đời này
duy nhất chỉ có BỐN CHÂN LÍ của loài người mà đức Thích Ca Mâu Ni đã ra công
khai ngộ giúp loài người thấu hiểu bốn sự thật của kiếp người. Bốn chân lí này
là một sự thật không một người nào dám phủ nhận, còn tất cả những giáo pháp
khác quý vị nên cảnh giác, vì nó thiếu sự chân thật, thiếu đạo đức, phi khoa học,
v.v…
Chỉ có giác
ngộ bốn sự thật này thì cuộc đời mới mong ra khỏi mọi sự đau khổ, ác pháp sẽ
không còn quấy nhiễu, con người mới biết thương yêu nhau chân thật. Và như vậy
thì tệ nạn xã hội sẽ chấm dứt.
KẾT LUẬN
VÀ ÁP DỤNG: Nói
đến đạo đức nhân bản - nhân quả là phải nói các pháp vô thường. Trong thế gian
này không có pháp nào thường hằng bất biến. Các pháp thường thay đổi theo quy luật
nhân quả, ngày nay như thế này nhưng ngày mai lại khác đi. Sự khác đi là luật
vô thường. Người mới sinh không giống người già, do đó chúng ta biết các pháp
vô thường. Cho nên sự sinh diệt nay còn mai mất cũng là luật vô thường. Người
am hiểu luật vô thường của các pháp thì khi đứng trước cảnh sinh ly tử biệt họ
chẳng nao núng tâm, họ chẳng buồn khổ, vì họ biết có sinh tức có tử, hôm nay sống
nhưng ngày mai sẽ chết, đó là luật vô thường không ai ra khỏi cảnh này. Trừ ra
những người tu chứng quả VÔ LẬU thì mới không bị chi phối trong
đạo luật vô thường này.
Cho nên các
con nên nhớ kỹ: “CÁC PHÁP VÔ THƯỜNG, KHÔNG CÓ PHÁP NÀO LÀ TA, LÀ CỦA TA, LÀ BẢN
NGÃ CỦA TA”. Hãy nhớ thường xuyên quán xét câu này cho thấm nhuần thì cuộc đời
này sẽ không còn khổ đau nữa. Đó là các con biết thương mình, không làm khổ
mình. Chúc các con thành công.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét