103-ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI -
TẬP 2/ 10
Ý NGHĨA CỦA
MỖI CHÂN LÝ
Vậy, mỗi
chân lý mang theo ý nghĩa đối với kiếp sống của loài người như thế nào?
I/ CHÂN LÝ
THỨ NHẤT: “Khổ”
Khổ là chân
lý thứ nhất của loài người. Sống trên đời này không ai là không khổ. Đó là một
sự thật chắc chắn không thể có ai nói khác được. Vậy trạng thái khổ như thế
nào?
Trạng thái
khổ đau của con người gồm có bốn khổ gốc: sanh[2], già, bệnh, chết.
1- Sanh khổ:
Sanh nghĩa
là gì? Sanh là cuộc sống của chúng ta, nhưng nói đến cuộc sống thì cần phải nói
đến những vật chất như: thực phẩm, y phục, nhà ở, đồ đạc, tiền bạc, đất đai, ruộng
vườn, v.v… Những vật này để phục vụ cho đời sống. Những vật chất này làm ra phải
do sức lao động bằng chân tay hoặc bằng trí óc. Do sức lao động bằng trí óc hay
tay chân làm ra vật chất thì phải chịu nhiều vất vả, cực khổ, nhọc nhằn, gian
nan, v.v… Vả lại, đời sống còn cần phải xã giao và giao tiếp với mọi người, mọi
vật, nên có lắm điều sinh ra nghịch ý, trái lòng, bất toại nguyện, v.v… Đó gọi
là sanh, sanh là một sự khổ như thật, không thể có ai chối cãi và phủ nhận đời
sống con người là không khổ. Do mọi người đều chấp nhận nó là sự thật, nên nó
là chân lý.
2- Già khổ:
Già khổ là
như thế nào? Già khổ là cơ thể suy yếu, đi đứng không vững vàng, tay chân run rẩy,
thường mệt nhọc, khó thở, tâm trí lẫn lộn hay quên, muốn làm việc gì cũng làm
không được, ngồi một mình thì cô đơn buồn khổ, v.v… Đó là già khổ như thật,
không ai chối cãi và phủ nhận được.
Già khổ là một
sự thật hiển nhiên mà mọi người đều phải chấp nhận. Do mọi người đều chấp nhận
nó là sự thật, nên nó được gọi là chân lý của con người. (54)
3- Bệnh khổ:
Bệnh khổ là
gì? Bệnh khổ là cơ thể bệnh tật, đau nhức khó chịu như: đau bụng, nhức đầu, ngứa
ngáy, mệt mỏi, bất an, nóng, lạnh, tê, chóng mặt, v.v… Đó là bệnh khổ như thật,
không ai chối cãi và phủ nhận được.
Bệnh khổ là
một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều phải chấp nhận. Do mọi người đều chấp
nhận nó là sự thật, nên nó được gọi là chân lý của con người.
4- Chết khổ:
Chết khổ là
gì? Chết khổ là sự dừng hơi thở, nhưng trước khi dừng hơi thở thì con người phải
thọ lấy những sự khổ đau tận cùng của thân và tâm. Tâm thì lo âu cho những người
thân: anh, chị, em, con, cháu… lo lắng những việc làm chưa xong còn bỏ dở… nuối
tiếc lúc phân ly hay rất sợ hãi trước cái chết… Còn về cơ thể bị bệnh đau nhức
bất an, trăn qua, trở lại, vật vã người, mệt nhọc khó thở, v.v… cho đến khi kiệt
sức mới chịu dừng hơi thở, dừng hơi thở tức là chết… Đó là chết khổ như thật,
không ai chối cãi và phủ nhận được.
Chết khổ là
một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều phải chấp nhận. Do mọi người đều chấp
nhận nó là sự thật, nên nó được gọi là chân lý của con người.
Bây giờ,
quý bạn đã hiểu sanh, già, bệnh, chết là một sự khổ như thật. Vì thế, nó thuộc
về chân lý khổ. Khi
đã xác định kiếp làm người là phải chịu khổ như vậy, có nghĩa là làm con người
thì không ai ra khỏi qui luật này. Ngoại trừ những người nào đã tự xây dựng cho
mình một nền đạo đức nhân bản - nhân quả trên thân tâm của họ, thì qui luật ấy
không còn tác động vào thân tâm họ được.
II/ CHÂN LÝ
THỨ HAI: “Nguyên nhân sinh ra khổ”
Nói đến những
hiện tượng đau khổ: sanh, già, bệnh, chết thì không còn ai mà không biết, nhưng
nói đến nguyên nhân sinh ra khổ đau thì ít ai biết đến. Vậy nguyên nhân nào
sinh ra sanh, già, bệnh, chết?
Nguyên nhân
sinh ra sanh, già, bệnh, chết, chính là “lòng ham muốn” của
con người. Khi sinh ra đời, không có người nào là không có lòng ham muốn, ham
muốn nhiều hay ham muốn ít, nhưng mọi người khéo che đậy, chứ tâm ham muốn thì
người nào cũng giống như người nào, không có khác nhau.
Lòng ham
muốn là chân lý thứ hai, nơi sinh ra muôn thứ khổ đau, hay nói cách khác là nguyên
nhân tập hợp mọi sự khổ đau của kiếp làm người. Chân lý này đúng như thật,
nhưng mấy ai đã lưu ý đến nó. Đời sống đau khổ của con người
không còn có một nguyên nhân nào khác hơn nữa, ngoài nguyên nhân này. Cho nên,
làm con người thì không ai là không có lòng ham muốn. Vạn vật sinh tồn trên quả
đất này đều có một nguyên nhân ham muốn này mà thôi (ham muốn sống). Ham muốn sống
là một chân lý như thật, không còn có ai chối cãi được.
III/ CHÂN LÝ
THỨ BA: “Tám phương cách”
Đó là phương
cách để sống đạo đức nhân bản - nhân quả. Đau khổ của con người là một loại bệnh
nghiệp, do hành động nhân quả của mỗi con người tạo ra cho chính mình. Bệnh do
chính mình tạo ra cho mình, chứ không ai ban tai hoạ, giáng bệnh.
Vậy có
phương thuốc nào trị hết bệnh nghiệp khổ đau của con người chăng?
Bệnh nghiệp
nhân quả do chính từ hành động của mình mà có, nên con người cũng có một phương
thuốc bằng hành động của chính mình đối trị và chuyển hoá bệnh nhân quả rất là
thần diệu. Nhờ đó mà con người hoàn toàn hết bệnh, hay nói cách khác là làm chủ
mọi sự khổ đau của kiếp người.
Đó là phương
thuốc có tám vị hợp lại thành một toa thuốc: “Đạo đức nhân bản - nhân
quả không làm khổ mình, khổ người”.
Trên cuộc đời
này, kẻ nào sống không làm khổ mình, khổ người là kẻ đã làm chủ được bốn chỗ
đau khổ: sanh, già, bệnh, chết. Cho nên, phương thuốc đạo đức này, nếu ai chịu
uống thuốc thì bệnh khổ sẽ chấm dứt. Còn ai không chịu uống thuốc này thì không
có một vị thầy thuốc nào cứu mình được, dù là thần y, thánh dược cũng chỉ vô
phương cứu chữa. Bởi vì bệnh do nghiệp nhân quả ác, thì chỉ có phương thuốc tám
vị nhân quả thiện, tức là đạo đức nhân bản - nhân quả mới cứu được bệnh nhân. Nếu
bệnh nhân không chịu uống thuốc này thì không có ông Trời, ông Thánh nào cứu được.
Bệnh nhân quả ác là do chính mình tạo ra như trên chúng tôi đã nói, thì phải do
chính mình uống thuốc nhân quả thiện mới trị được.
Phương
thuốc đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người là chân lý thứ
ba của đời người. Nó
xác định và hoá giải sự khổ đau của kiếp người, giúp cho con người có một đời sống
thanh thản, an vui và hạnh phúc như thật. Những hành động đạo đức cao quý tuyệt
vời này trên đời không thể lấy gì so sánh được. Chính vì nó không làm khổ mình,
khổ người, luôn đem lại sự an vui và hạnh phúc chân thật cho mình, cho mọi người,
nên mới thật sự là chân lý cao quí và cao thượng. Đó là một chân lý như thật,
không còn ai phủ nhận được.
Nếu có người
bảo rằng: còn có một phương thuốc đặc trị khác trị được bệnh
nghiệp khổ này, thì chúng tôi căn cứ vào thời gian lịch sử của loài người mà
xác định rằng: không có phương thuốc nào khác ngoài phương thuốc tám vị đạo đức
nhân bản - nhân quả.
Tại sao
chúng tôi dám xác định được như vậy?
Từ khi con
người có mặt trên hành tinh này, đã phát minh ra nhiều triết thuyết và nhiều tôn
giáo. Trong mỗi tôn giáo có giáo điều và giáo lý, nhưng không giải cứu được bốn
bệnh khổ này. Nghĩa là con người vẫn phải chịu qui luật nhân quả: sanh, già, bệnh,
chết.
Có bao nhiêu
tôn giáo đã dạy con người tu tập có thần thông phép thuật, có luyện thuốc trường
sanh bất tử. Nhưng cuối cùng, đến ngày nay con người vẫn chưa thoát ra khỏi qui
luật sanh tử, luân hồi…
Trên hành
tinh này có một người thoát khỏi bốn chỗ khổ đau. Đó là Thích Ca Mâu Ni, Ngài
biết dùng loại thuốc đặc trị nhân bản - nhân quả này. Vì thế, loại thuốc này trở
thành chân lý như thật của loài người, mà không còn ai dám phủ nhận.
IV/ CHÂN LÝ
THỨ TƯ: “Một trạng thái Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự của Tâm”
Đó là một trạng
thái thanh thản, an lạc và vô sự của tâm. Một người biết sống
trong đạo đức không làm khổ mình, khổ người, tức là biết cách sống đúng như
chân lý thứ ba, thì người ấy thân tâm thường có trạng thái thanh thản, an lạc
và vô sự. Luôn luôn lúc nào tâm hồn cũng bất động trước mọi chướng ngại pháp.
Đó là chân lý thứ tư của con người.
Chân lý
thứ tư xác định rõ ràng một cuộc sống đầy đủ trạng thái thân tâm trong sáng, hồn
nhiên, thanh thản, an lạc, thoải mái và dễ chịu rất là hạnh phúc. Một trạng thái sống như vậy, là
con người không ai mà không nhận ra được nó, Cho nên nó là một chân lý như thật,
không thể nào có ai nói khác được.
Trên đây là
bốn chân lý thật sự của kiếp người. Nó không phải là triết lý mà cũng không phải
là tôn giáo. Cho nên, khi con người có mặt thì chân lý ấy cũng có mặt trên hành
tinh này, và đến bây giờ chân lý ấy cũng không thay đổi. Dù sau này con người
có sống đến vô lượng thế kỷ, thì chân lý ấy cũng vẫn như vậy. Mặc dù con người
có nâng cao trình độ kiến thức, khoa học và công nghệ có phát triển cùng tột đến
đâu, thì chân lý ấy cũng không lỗi thời. Tại sao vậy?
Vì nó là
chân lý của con người, con người còn là chân lý còn, con người mất là chân lý mất.
Vì thế, không ai còn có thể thêm bớt một điều gì vào trong chân lý đó được cả.
Chính vì không thêm bớt gì được thì mới thực là chân lý, còn
thêm bớt được vào thì không thể gọi là chân lý. Còn các tôn giáo và triết lý
khi người sau phát triển thường thêm thắt, sửa đổi rất nhiều, nhưng chính sự
phát triển, thêm thắt đó đã xác định cho chúng ta biết rằng, các tôn giáo và
triết lý đó không phải là chân lý.
Vì con người
duy chỉ có bốn chân lý sự thật này mới xác định đúng là con người. Ngoài ra thì
không còn có một chân lý nào khác nữa để xác định về con người đúng đắn cả. Các
triết lý và tôn giáo không phải là chân lý, nên có rất nhiều lý thuyết trừu tượng,
ảo tưởng. Và vì thế nó luôn luôn phải sửa đổi cho hợp thời. Nếu không
sửa đổi thì nó lỗi thời, không theo kịp sự tiến hoá của thời đại con người. Nhất
là con người đang phát triển mạnh về khoa học và công nghệ tiên tiến.
Tóm lại, bài
này xác định chân lý của con người không phải là triết lý và tôn giáo. Có nhiều
người đã hiểu sai lầm triết lý và tôn giáo là chân lý của con người. Xin các bạn
nên lưu ý và suy xét kỹ lại vấn đề này: Chân lý là một sự liễu tri thật
sự bản chất của con người, nó không bao giờ có sự thay đổi và không ai thay đổi
được nó, nó luôn luôn hợp thời, dù với bất cứ thời điểm nào. Còn ai
dám cả gan thay đổi bốn chân lý này thì người ấy biến nó trở thành triết lý, chứ
không còn là chân lý nữa.
Triết lý là
tưởng tri trừu tượng của con người, nó đang áp dụng và thăm dò con người, nên
nó thường thay đổi để đáp ứng kịp thời. Cho nên, chúng tôi xác định nó không phải
là chân lý của con người.
Tôn giáo
cũng vậy và còn hơn thế nữa, vừa tưởng tri trừu tượng, vừa ảo tưởng mê tín, khiến
cho con người sống trong điên đảo tưởng, điên đảo tình, điên đảo kiến, điên đảo
tâm, v.v… Làm mất hết sức tự lực, luôn dựa vào Thần, Thánh và thế giới ảo tưởng
siêu hình. Tưởng khi theo tôn giáo đó, là sau này khi chết đi linh hồn sẽ được
tiếp độ vào các cõi đó.
Triết học và tôn giáo thường chạy theo đuôi con người, có nghĩa là hoàn cảnh sự sống của con người xảy ra khắc nghiệt như thế nào, thì những con người trong hoàn cảnh đó sản xuất ra triết học và tôn giáo để đáp ứng giải quyết sự khổ đau trong lúc đó, để đem lại cho mọi người sống được bình an. Nhưng khi hoàn cảnh hay thời đại đó qua rồi thì nó lỗi thời, không còn áp dụng vào con người được nữa. Cho nên, nó thường phải chỉnh sửa cho phù hợp với thời đại của con người. Vì vậy nó không phải là chân lý.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét