GIÁO
ÁN RÈN NHÂN CÁCH LỚP NGŨ GIỚI : ĐỨC HIẾU SINH TẬP 2 / 14.
TRẢ LỜI
NHỮNG CÂU HỎI
Trả lời
câu hỏi 1:
“Con thân
yêu! Lâu rồi mẹ không nhận được thư con”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người tu sĩ
Phật giáo lấy lòng yêu thương của mình đối với tất cả mọi người, mọi vật, phải
yêu thương như người mẹ thương con. Nếu ở xa, lâu lâu không nhận được thư con
là người mẹ lo lắng, lòng dạ bồn chồn, không biết nay nó ra sao? Lúc nào trong
tâm cũng có người con. Đọc đoạn văn này: “Lâu rồi mẹ không nhận được
thư con”. Đó là một nỗi nhớ thương con của người mẹ.
Chúng ta học
đạo đức hiếu sinh thì phải theo dõi từng lời nói, từng hành động, từng ý suy
nghĩ của mình đều hướng đến lòng thương yêu. Nhờ đó, khi ác pháp đến không tác
động được tâm. Bởi vậy, chỉ có lòng yêu thương mới đem lại cho chúng ta một sự
bình an. Lòng yêu thương là một pháp xả tâm tuyệt vời. Người tu Định Vô Lậu mà
không có đức hiếu sinh thì khó có tâm vô lậu.
Tâm vô lậu
chỉ có tư duy quán xét theo thiện pháp đức hạnh giới luật thì mới xả được
tâm. Còn ngồi tu ức chế tâm, làm cho hết vọng niệm thì làm sao tâm vô lậu được?
Đó là tu sai Phật pháp, cần phải sửa đổi pháp tu.
Trả lời
câu hỏi 2:
“Lần về
thăm nhà, dù con không nói và cố tỏ ra vui”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Dù trong
lòng có những sự lo lắng, những buồn phiền, hay có những sự đau khổ, chúng ta
cũng không nên thổ lộ khiến cho người khác biết, vì biết sẽ làm cho họ buồn phiền
hay lo lắng, đau khổ, thì đó chính là chúng ta thiếu lòng yêu thương người, tức
là làm khổ người.
Cho nên dù bất
cứ những chuyện gì, thì tự cứu mình ra khỏi các ác pháp, để đem lại cho tâm
mình một sự bình an, đó là thương mình. Còn nói ra là đem đến cho người khác lo
lắng và buồn rầu, thì đó là không thương người. Câu này nói rất rõ: “Dù
con không nói và cố tỏ ra vui”, tức là làm vui vẻ để cho người mẹ
không biết nỗi buồn lo của mình. Đó là thực hiện lòng thương mẹ, lòng thương
người. Ngược lại, ôm ấp trong lòng những nỗi buồn phiền mà không biết xả là làm
khổ mình.
Cho nên biết
thương mình thì phải thương người và biết thương người thì phải biết thương
mình. Ở đây lòng thương yêu chỉ có một hướng, thương mẹ còn
mình thì đau khổ, lòng thương này chưa phải là đức hiếu sinh. Nó chỉ là lòng
thương yêu một hướng của thế gian mà thôi.
Người học đạo
đức hiếu sinh phải hiểu biết rõ ràng để áp dụng vào thân tâm của mình, để tránh
không làm khổ mình, khổ người.
Đoạn văn
trên đây, chúng ta hiểu rất rõ đó là lòng thương yêu chưa trọn vẹn, lòng yêu
thương đó chỉ có một hướng như trên đã nói, lòng yêu thương hạn hẹp còn nằm
trong thất tình lục dục. Lòng yêu thương đó còn là lòng yêu thương của những
người thế gian; lòng thương yêu đó có một chiều, nó không phải là đức hiếu sinh
của Phật giáo. Đức hiếu sinh của Phật giáo soi nhiều hướng, phủ trùm vạn hữu.
Trả lời
câu hỏi 3:
“Nhưng mẹ
đã linh cảm con đang gặp phải một chuyện gì đó không may, con đang rất buồn, thất
vọng và đuối sức”. Câu
này dạy THIẾU ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người mẹ nhận
xét những nỗi buồn phiền, thất vọng của người con đang che dấu mẹ. Sự nhận xét
này nói lên lòng thương yêu của người mẹ.
Nếu người tu
hành nào cũng lắng nghe những sự đau khổ, buồn phiền của những người xung quanh
mình, và tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ và hướng dẫn họ biết phương pháp xả tâm để
không còn buồn phiền đau khổ nữa. Hành động giúp đỡ người như vậy là ban cho
tình thương đến họ, tức là yêu thương người. Còn người mẹ ở đây biết thương
con, nên cố tìm hiểu con mình lo lắng, buồn phiền những điều gì, để giúp con
mình thoát khổ. Sự tìm hiểu về sự buồn phiền, đau khổ của con mình, đó là lòng
yêu thương của người mẹ ban cho con mình.
Đức hiếu
sinh cũng vậy, thường khởi lên trong ý nghĩ, trong lời nói, trong hành động bằng
cách ban cho mình, cho người. Đó là áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Trả lời
câu hỏi 4:
“Mẹ không
lên thăm con vào lúc này, vì mẹ biết con sẽ không thổ lộ với mẹ”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH Ý
HÀNH.
Mẹ muốn lên
thăm con lắm, nhưng mẹ biết con không nói cho mẹ biết những nỗi lo lắng khổ đau
trong lòng con, vì có nói ra làm cho mẹ lo buồn. Đó là tình mẹ thương con và
tình con thương mẹ. Tình thương này chỉ có một hướng, do thương
con mà mẹ khổ (lo lắng); do thương mẹ con không nói ra nên làm khổ mẹ (che dấu).
Các tu sinh
thấy chưa? Tình thương ngoài đời là tình thương trong đau khổ, chứ không phải
tình thương trong an vui và hạnh phúc cả đôi bên.
Chỉ có đức
hiếu sinh mới có sự thương mình, thương người. Thương mà không nói lời
“THƯƠNG”, mà chỉ nói bằng lời “ÁI NGỮ”, lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn,
thanh lịch, nhã nhặn, v.v…
Thương mình,
thương người bằng những hành động giúp đỡ, bố thí tiền của, thực phẩm, bố thí
công sức việc làm, bố thí lời nói an ủi, bố thì từng hành động vuốt ve cho ăn,
cho uống, trị bệnh, v.v… Những hành động đó đều là đức hiếu sinh biết thương
mình, thương người; là đạo đức cao thượng tuyệt vời. Đời sống con người và các
loài vật hằng ngày rất cần những lòng yêu thương này để che chở đùm bọc cho
nhau.
Trả lời
câu hỏi 5:
“Muốn tự
vượt qua, và sự có mặt của mẹ đôi khi sẽ làm con yếu lòng hơn mà thôi”. Câu này dạy ĐỨC TỰ LỰC HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Gặp những
khó khăn trong cuộc đời, trong công việc làm ăn; trong sự chung đụng với mọi
người; trong việc tu tập; trong sự học hành; trong các biến cố làm thay đổi cuộc
sống; trong những lúc bệnh tật; trong những tai nạn xảy ra thình lình; trong những
lúc bị mất mát tiền của, hoặc người thân ra đi vào cõi vĩnh hằng, v.v… Gặp những
trường hợp đó, chúng ta đều phải tự lực vươn lên, vượt qua những nỗi khó khăn,
những nỗi mất mát đó. Hành động tự lực vươn lên và vượt qua là những hành động
thương mình, thương người.
Ở đây, nếu người
con vươn lên và vượt qua những khó khăn trong đời sống và trong việc làm của
mình, thì người mẹ vui sướng biết dường nào! Đó là sự thị hiện đức hiếu sinh tự
lực vươn lên để mang lại sự an vui cho mình, cho người, nhất là đem lại sự bình
an cho mình và cho mọi người.
Bởi vậy, mỗi
hành động tuy nhỏ nhặt, nhưng nó là đạo đức hiếu sinh, cho nên trong cuộc sống
hằng ngày, mỗi mỗi hành động của chúng ta sống đều toát ra lòng thương yêu rộng
lớn.
Hằng ngày sống
trong lòng yêu thương ấy, nhưng chúng ta không ngờ. Lòng yêu thương bằng hành động
mà người đời gọi là “lòng tốt”. Chính chúng ta đang sống trong
lòng yêu thương ấy mà chúng ta cũng không biết, chỉ biết thấy
người khác khổ là mình giúp đỡ mà thôi.
Trả lời
câu hỏi 6:
“Cuộc sống
vốn không bằng phẳng như con từng mong ước thời còn đi học hay trên ghế giảng
đường. Mọi chuyện đều có thể xảy ra một cách bất ngờ nhất”. Câu này dạy ĐỨC CẨN THẬN HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Người mẹ
khuyên con với những lời có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, bằng một tình
thương chan chứa. Nếu trên đời này ai cũng ban tình thương cho nhau như người mẹ
thương con này thì thế gian là Thiên Đàng, Cực Lạc.
Đúng là cuộc
đời không bằng phẳng, mọi chuyện đều có thể xảy ra một cách bất ngờ. Người mẹ lấy
kinh nghiệm đời sống của mình mà trao cho con mình, để mong con mình thoát khổ.
Rút ra từ
kinh nghiệm đời sống những đức hạnh để dạy cho con mình, chứ người mẹ này chưa
bao giờ hiểu biết Phật giáo; chưa bao giờ biết rõ các pháp trong thế gian là vô
thường. Nên người mẹ chỉ biết lấy đạo đức kinh nghiệm bản thân dạy cho con mà
thôi.
Cuộc đời
không bằng phẳng chính do các pháp vô thường, nếu biết các pháp vô thường thì
cuộc đời không bằng phẳng là lẽ thường, đương nhiên có gì mà phải bận tâm. Cuộc
đời không bằng phẳng thì nay phải có chuyện này, nếu không có chuyện này thì
mai phải có xảy ra chuyện khác. Biết các pháp vô thường cho nên chúng ta không
còn khổ đau. Không còn đau khổ là chúng ta đã buông xả sạch. Biết các pháp vô
thường là đau khổ, nên chúng ta chỉ còn biết thương yêu mọi người mà không giận
hờn hay oán trách, ghét họ. Vì các pháp vô thường, nên nó có thường đâu mà khổ
đau. Phải không quý tu sinh?
Người học Phật
phải thông suốt lý nhân quả và các pháp vô thường, thì tất cả mọi sự khổ đau
trong cuộc này không còn tác dụng vào thân tâm được. Không tác dụng vào thân
tâm được là giải thoát, là không còn dính mắc, chấp đắm, nhất là tâm tham dục
phải bị triệt tiêu, phải được diệt trừ tận gốc. Có đúng như vậy không quý vị?
Các pháp vô
thường, nhưng chúng ta không biết nên thấy nó thường hằng. Thấy nó thường hằng
nên chúng ta đau khổ.
Trả lời
câu hỏi 7:
“Mẹ chợt
thấy mẹ có lỗi với con, khi luôn dành cho con tình yêu thương, chăm sóc mà chưa
chuẩn bị cho con tinh thần và cách đối phó khi điều bất hạnh xảy đến”. Câu này dạy ĐỨC BỔN PHẬN HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Một người mẹ
thương con, chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ con cho nên người chưa đủ, mà còn phải
dạy con mình đức kiên nhẫn, đức dũng cảm, đức vượt qua, đức tự tin, đức sáng suốt,
đức ly tham, đức chung thuỷ, đức thành thật, đức minh mẫn, đức tùy thuận, đức bằng
lòng, đức hiếu sinh, đức kiên trì, đức im lặng, đức tha thứ, đức bao dung, đức
tự trọng, đức tôn kính, đức lễ độ, đức quý trọng, v.v… Có dạy con như vậy mới
thấy mình làm hết bổn phận làm mẹ.
Mỗi gia đình
cần phải thấy và hiểu biết những đức hạnh trên đây, thì bổn phận làm cha mẹ là
phải dạy dỗ con cái của mình đầy đủ những đức hạnh ấy. Một người có đầy đủ đức
hạnh như vậy thì mới hoá giải được khi gặp những điều bất hạnh; khi gặp những
hoàn cảnh khó khăn; khi gặp những ác pháp đang bủa vây tứ hướng; khi gặp các đối
tượng hung bạo.
Học đường
cũng vậy, không phải chỉ có dạy văn hoá, nghề nghiệp, mà còn phải
trang bị cho các cháu học sinh đầy đủ những đức hạnh trên đây. Nhờ đó, khi ra
tiếp xúc với cuộc đời thì các cháu mới có đủ đức hạnh để vượt qua những khúc
quanh của cuộc đời, những nỗi bất hạnh, những ác pháp cực ác.
Thấy con
trong đau khổ; trong những hoàn cảnh éo le; trong những điều bất hạnh; trong sự
hãm hại của người khác, thì người mẹ mới nhận ra mình thiếu bổn phận dạy dỗ con
mình những kinh nghiệm bản thân, tức là những đức hạnh kiên cường, nghị lực như
lời trong thư đã nói: “chăm sóc mà chưa chuẩn bị cho con tinh thần và
cách đối phó khi điều bất hạnh xảy đến”. Chăm sóc nuôi nấng dạy con
chưa đủ, mà còn dạy con cách thức đối phó với những điều bất hạnh, những ác
pháp.
Đối phó có
hai cách:
1- Đối
phó trong ác pháp bằng thiện pháp.
2- Đối
phó trong ác pháp bằng ác pháp.
Đối phó
trong ác pháp bằng thiện pháp là đem đức hạnh để hoá giải tất cả ác pháp, chuyển
đổi cuộc sống khó khăn thành cuộc sống an nhiên tự tại và hạnh phúc.
Đối phó
trong ác pháp bằng ác pháp là dùng thế lực mạnh đàn áp thế lực yếu, tạo cảnh
đau khổ lại càng đau khổ hơn.
Ở đây, chắc
người mẹ sẽ hướng dẫn con mình trong các thiện pháp để đương đầu với mọi nghịch
cảnh, để đem lại sự bình an cho mình, cho người, tức là bà sẽ dạy con mình với
những lòng yêu thương rộng lớn hơn.
Trả lời
câu hỏi 8:
“Mẹ không
muốn những khó khăn, nỗi đau mà mẹ đã từng trải qua hay đã từng biết sẽ lại đến
với con. Mẹ không sắp xếp được những cảm xúc, suy nghĩ, và những điều mẹ muốn
nói với con trong thư này có thể rộng hơn những gì con đang gặp phải, nhưng con
hãy đọc và giữ nó, nó có thể sẽ còn cần cho con sau này”. Câu này dạy ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Để đối phó với
những nghịch cảnh không có phương pháp nào tốt hơn là những đức hạnh giới luật.
Những đức hạnh chúng tôi đã nói ở trên được đem áp dụng vào đời sống hàng ngày
thì không có nghịch cảnh nào mà không hoá giải chuyển đổi được.
Đức hiếu
sinh ngự trị ở đâu thì ở đó có hạnh phúc và sự bình an, chính đức hiếu sinh sẽ
mang đến sự bình an cho chúng ta ngay liền.
Lòng thương
yêu của người mẹ đã mang đến cho người con rất nhiều nghị lực, khi đọc bức thư
của mẹ. Người mẹ đã ghi lại những kinh nghiệm về đời sống của mình, bà đã phải
vượt qua bao thử thách gian lao của cuộc đời. Người con chỉ cần nghiền ngẫm lại
những lời khuyên của mẹ, rồi người con sẽ rút ra một bài học ngàn vàng, làm
chuyển đổi những nghịch cảnh, những điều bất hạnh.
Người ta nói
đến đức hạnh rất nhiều, nhưng có mấy ai sống đúng đức hạnh được. Sống không
đúng đức hạnh nên cuộc sống của họ đau khổ vẫn toàn sự khổ đau.
Con người
thường hay sống chịu đựng trong những đau khổ, chứ ít ai chịu sống với đức hạnh
hiếu sinh để chuyển đổi, nên khổ lúc nào cũng khổ đau. Nếu chúng ta biết đặt
tình thương ở mọi hướng, thì trong cuộc sống hàng ngày không có ác pháp nào
không hóa giải được, không thay đổi được. Từ khổ đau, đức hiếu sinh sẽ đem lại
sự bình an cho mình và cho mọi người. Bởi trong đạo đức hiếu sinh có đầy đủ những
đức hạnh đã kể ở trên.
Ví dụ: Có
lòng thương yêu thì phải có đức nhẫn nhục; có nhẫn nhục thì phải có đức tùy thuận;
có đức tùy thuận thì phải có đức bằng lòng, nhờ đó mà nó chuyển đổi nhân quả xấu trở
thành nhân quả tốt.
Cho nên
chúng ta chỉ cần sống với lòng thương yêu là chúng ta có đủ những đức hạnh để
làm thay đổi nghịch cảnh thành thuận cảnh, từ đau khổ sẽ chuyển thành an lạc,
thanh bình, yên vui, hạnh phúc. Bởi vậy đức hiếu sinh rất cần thiết cho mọi người,
nó là một sức sống hạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài vạn vật đang
sống trên hành tinh này.
Trả lời
câu hỏi 9:
“Con hãy
đón nhận mọi sự việc bằng sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật”. Câu này dạy ĐỨC DŨNG CẢM HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Chúng ta đừng
hiểu người xử dụng lòng yêu thương là một sự tránh né những ác pháp, những sự
khó khăn của cuộc đời. Đó là hiểu sai lệch. Ở đâu có tình thương ở đó sự dũng cảm.
Một người mẹ
hy sinh cho con mình, lấy thân mình che chở cho con, dám liều chết xông vào lửa
đỏ cứu con, như câu chuyện “Vết Thẹo”. Một con chim ưng vì thương chủ, dám hy
sinh thân mạng để cứu lấy mạng sống của “Thành Cát Tư Hãn”. Vì thương bà lão tật
nguyền, mà “Chú Bé Ném Đá” vào xe người khác. Vì yêu thương tổ quốc, biết bao
nhiêu gương anh hùng liệt sĩ đã bỏ mạng nơi chiến trường…
Bởi vậy,
lòng yêu thương ở đâu là đức dũng cảm ở đó. Trong đức trách nhiệm, bổn phận nghề
nghiệp đều có mang theo đức hiếu sinh. Như một bác sĩ có trách nhiệm bổn phận
là phải cứu bệnh nhân, giành lại mạng sống của bệnh nhân trên tay tử thần. Đó gọi
là Y ĐẠO; một người cứu hoả xông vào nơi lửa đỏ để cứu người, bất kể sự sống chết
của mình ra sao cũng được, miễn là cứu người. Làm được việc như vậy goị là ĐỨC
NGHIỆP; một ông thầy giáo đem hết kiến thức hiểu biết của mình truyền đạt lại
cho học trò với sự tận tâm, tận lực như người mẹ thương các con thì không phải
ĐỨC GIÁO sao? Một người lái xe cẩn thận không để xảy ra tai nạn giao thông gọi
là người có ĐỨC CẨN THẬN GIAO THÔNG HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Người có đức
hiếu sinh giao thông là người biết thương mình, thương người và thương tất cả
chúng sinh.
Bởi thế, đức
hiếu sinh phủ trùm vạn hữu là vậy, nó ở đâu là ở đó có sự bình an yên lành đến
với mọi người, mọi vật. Người làm nghề chài lưới, nghề săn bắn, nghề đồ tể giết
trâu, bò, heo, dê, gà, vịt là những người không có lòng yêu
thương nhiều hướng, chỉ có lòng yêu thương một hướng. Vì thế họ chưa bao giờ có
đầy đủ những đức hạnh cao thượng, nên đời sống của họ có nhiều sự khổ đau, nhiều
tai nạn xảy đến. Còn những người có đức hiếu sinh, tức là lòng yêu thương nhiều
hướng, thì lúc nào đời sống cũng an vui và hạnh phúc.
Trả lời
câu hỏi 10:
“Con đừng
chạy trốn vị trí của mình, mà hãy biết phân tích với đúng bản chất những gì đã
hiện ra”. Câu
này dạy ĐỨC HIẾU SINH KHÔNG TRỐN CHẠY những ác pháp.
Làm người đứng
trước những khó khăn mà trốn chạy là người hèn nhát, là người chưa xứng đáng
làm người. Một người biết yêu thương mình, thương người thì không trốn chạy, phải
nhìn thẳng vào cuộc đời, vào các ác pháp, vào các đối tượng mà vượt qua. Vượt
qua bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu gian khổ là người có đức hiếu sinh không trốn
chạy.
Một y bác sĩ
trị bệnh thiếu y đạo là chỉ biết có tiền mới cứu chữa bệnh nhân, đó là bác sĩ
thiếu đức hiếu sinh, không có lương tâm nghề nghiệp, là người tránh né y đạo,
lương tâm nghề nghiệp của mình. Một ông thầy giáo dạy học móc nối học sinh về
nhà để dạy riêng, là tránh né đức giáo của người thầy, là không
có lương tâm nghề nghiệp.
Trong đời
này, bất cứ người nào làm không hết trách nhiệm và bổn phận nghề nghiệp của
mình là những người tránh né. Người tránh né là người thiếu đức hiếu sinh
thương mình, thương người, là người hèn nhát, tham tiền.
Người có đức
hiếu sinh là người gan dạ, dũng cảm, không bao giờ hèn nhát trốn chạy trước một
ác pháp, mọi nghịch cảnh nào cả.
Ví dụ: Nghe
người khác bị bệnh truyền nhiễm mà mọi người đều tránh né sợ lây bệnh, đó là
hèn nhát. Chúng ta là những người đã học về đạo đức nhân quả hiếu sinh sao lại
tránh né như vậy. Vậy đức hiếu sinh ở đâu? Học đức hiếu sinh nhân quả là biết
rõ nhân quả. Biết rõ nhân quả để làm gì mà phải tránh né như vậy? Thật là hèn
nhát đáng trách. Nhất là người thầy dạy đạo đức, không nên tránh né, mà hãy
nhìn thẳng con bệnh, đến gần người bệnh để an ủi và xoa dịu, làm cho người bệnh
vượt qua những khó khăn, bệnh nặng sẽ trở thành bệnh nhẹ.
Người học đạo
đức hiếu sinh phải ban trải lòng từ khắp mọi nơi, mọi người. Cho nên khi thấy
ai hoạn nạn thì mang đến lòng yêu thương cho người ấy. Mang đến lòng
yêu thương là sự giúp đỡ bằng của cải, tài sản, vật chất, thực
phẩm, lời nói an ủi, khuyên lơn, v.v…
Trả lời
câu hỏi 11:
“Hãy tự
tin vượt lên, khắc phục và mạnh dạn đấu tranh với những trở ngại bằng tấm lòng
thực sự, bằng sự hướng thiện và nhìn rõ những gì mình chưa hoàn thiện”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Một người
quyết chí tu hành phải tự tin nơi mình. Tự tin nơi mình mới có quyết tâm, quyết
chí. Có quyết tâm, quyết chí mới có sự gan dạ, dũng cảm. Và như vậy mới dám xác
định mình sẽ tu chứng đạo; sẽ làm chủ được thân tâm; sẽ ra khỏi nhà sinh tử
luân hồi; sẽ làm chủ được nhân quả. Trên đường tu tập, dù có gặp bất cứ những
khó khăn nào, những trở ngại nào cũng đều vượt qua, đó là nhờ đức tự tin. Người
tu hành mà mất lòng tự tin nơi mình là không bao giờ tu tập đến nơi đến chốn,
chỉ tu chơi, tu có hình thức mà thôi, rất uổng phí một đời tu tập.
Tu hành
không phải tu lấy có, mà tu hành phải thật sự. Tu hành để chấm dứt luân hồi,
sinh tử, để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người. Cho nên tu phải thật tình,
phải thật sự; tu là cả một sự tranh đấu với thân tâm của mình
không ngừng; tu là đi ngược lại với lòng tham muốn thế gian; tu là sống trong
thiện pháp; tu là ngăn diệt lòng tham muốn. Tu hành là những việc làm như vậy,
nếu chúng ta không tự tin, không khắc phục, không mạnh dạn, không đấu tranh với
những ác pháp, không chuyển đổi được luật nhân quả, không làm thay đổi cuộc sống
này thì tu hành chỉ làm phí công, mất thì giờ vô ích mà thôi.
Người mẹ dạy
con rất tuyệt vời: “Hãy tự tin vượt lên, khắc phục và mạnh dạn đấu
tranh với những trở ngại bằng tấm lòng thực sự, bằng sự hướng thiện và nhìn rõ
những gì mình chưa hoàn thiện”. Khi chúng ta tu hành, đều nên nhớ lấy
lời dạy này để nhắc tâm, để sửa đổi tâm tính sống toàn thiện.
Muốn sống
toàn thiện thì không có pháp nào tuyệt chiêu hơn là pháp hướng tâm và đức hiếu
sinh. Trên đời này, muốn sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì ai cũng
biết, chỉ có lòng yêu thương mới giúp chúng ta buông xả tận gốc các ác pháp;
lòng yêu thương ở đâu thì đức tha thứ và nhẫn nhục ở đó; lòng yêu thương ở đâu
thì đức tự tin và dũng cảm ở đó; lòng yêu thương ở đâu thì đức buông xả và lòng
hoan hỷ ở đó; lòng yêu thương ở đâu thì đức kiên trì bền chí ở
đó. Cho nên chúng ta muốn sống toàn thiện thì phải sống với đức tự tin lòng yêu
thương, nó sẽ mang đến những điều an ổn và bình an cho mình, cho người.
Vậy các tu
sinh muốn hướng thiện để sửa tâm tính của mình thì phải tập sống với đức hiếu
sinh, chỉ có đức hiếu sinh mới hoàn thiện; chỉ có đức hiếu sinh mới giúp chúng
ta ra khỏi luân hồi sinh tử. Vì thế giới luật đầu tiên của Phật giáo là giới
KHÔNG NÊN SÁT SINH ra đời để dạy mọi người phải tu học và áp dụng vào cuộc sống
bằng giới luật này, tức là đức hạnh hiếu sinh. Cho nên đức hiếu sinh rất quan
trọng trong sự tu tập làm chủ sự sống chết. Biết rõ như vậy, các tu sinh phải cố
gắng nhiều hơn nữa để sống với đức hạnh cao thượng này.
Trả lời
câu hỏi 12:
“Con đừng
bao giờ bỏ cuộc, với cảm giác cuộc sống không còn lối thoát trong bất kỳ hoàn cảnh
nào. Cuộc sống không thể trở nên bế tắc hoàn toàn, một khi con người còn tin
vào chính mình”. Câu
này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.
Sinh tử luân
hồi và bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết là những nỗi khắc khoải trong
lòng của mỗi người, chỉ có những người trí mới quyết tâm làm chủ nhân quả, làm
chủ thân tâm, làm chủ cuộc sống. Có làm chủ được như vậy thì cuộc đời mới có sự
an vui và hạnh phúc, nếu chưa làm chủ thân tâm là một nỗi lo lắng và bất an, vì
sinh, già, bệnh, chết nó sẽ đến thăm lúc nào, cần là nó đến ngay. Bởi vậy chưa
làm chủ nó thì phải nỗ lực tận cùng chiến đấu và tu tập hết sức mình, chứ không
nên tu tập cho có chừng, cho lấy có. Có một số tu sinh khi Chơn Như sóng gió là
bỏ cuộc ra đi, hoặc ra đời làm ăn sinh sống như một người bình thường, thật uổng
công tu tập từ bấy lâu nay.
Tu hành chỉ
có lòng yêu thương là pháp môn thứ nhất để đương đầu với giặc sinh tử luân hồi,
nhờ đó mới đem lại những thắng lợi tốt đẹp cho chúng ta. Cho nên những người
không có lòng yêu thương mình, thương người và thương các loài vạn vật là những
người thiếu đức tự tin và dũng cảm, thiếu ý chí, không kiên cường, gan dạ. Họ
là những người rất hèn yếu, nhút nhát không dám đương đầu với những hoàn cảnh
khó khăn, với những tai nạn xảy ra thình lình.
Xã hội đầy dẫy
nạn tiêu cực là do những người thiếu lòng tự tin, thiếu đức hiếu sinh, không
dũng cảm, thiếu ý chí, không kiên cường, gan dạ; chỉ muốn được
việc, được lợi cho riêng mình, nên làm băng hoại đạo đức xã hội.
Một người đi
tu là biết đời sống thế gian là sự đau khổ, là biết thân phận làm người là vô
thường, là nhân quả. Vì vậy mà bỏ đời đi tu, nhưng khi gặp khó khăn lại bỏ lỡ
giữa đường, trở về hoàn tục thì những người ấy quá dở, không đủ lòng tin nơi
mình, nơi pháp môn tu tập. Người không đủ lòng tin nơi mình thì không làm nên một
sự việc gì lớn cả; là người dễ thất bại trước mọi việc làm, huống là đi tu. Có
nhiều người cho rằng tu hành khó lắm, khó sao có người tu chứng. Vậy thì tu đâu
phải khó, chỉ vì chúng ta không tự tin nơi mình; không tự tin nơi pháp; không tự
tin nơi lời Phật dạy. Người như vậy là người mất hướng đi lên, chỉ còn đi vào
bước đường cùng mà thôi.
Trả lời
câu hỏi 13:
“Hãy biết
chấp nhận và tha thứ”. Câu này dạy ĐỨC TÙY THUẬN VÀ THA THỨ HIẾU SINH Ý HÀNH.
Con đường tu
tập theo Phật giáo để làm chủ bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết, là một điều
lợi ích thiết thực cho con người, thế mà mọi người không tu tập thì uổng phí một đời
người. Vì lợi ích lớn cho con người, khi chúng ta đứng trước các pháp dù thiện
hay ác chúng ta hãy vui lòng, chấp nhận, thương yêu và tha thứ mọi sự lỗi lầm của
kẻ khác. Chính nhờ sự chấp nhận, yêu thương và tha thứ mà chúng ta xả được tâm
tham, sân, si, mạn, nghi. Bởi vậy khi nào chúng ta có đầy đủ lòng thương yêu,
chấp nhận và tha thứ thì ngay đó thân tâm chúng ta mới thanh thản, an lạc và vô
sự thật sự. Nhờ thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì chúng ta mới có đủ
năng lực làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Cho nên muốn được
tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì chỉ có lòng yêu thương mới nhiếp phục được
các pháp ác.
Con đường tu
tập theo Phật giáo không phải khó, chỉ khó là chúng ta không biết chấp nhận,
không biết thương yêu và tha thứ, nên không buông bỏ tất cả ác pháp xuống được.
Do không buông xả ác pháp mà thân tâm không được thanh thản, an lạc và vô sự.
Vì thân tâm không thanh thản, an lạc và vô sự, nên tu mãi mà không có Tứ thần
túc. Không có Tứ thần túc thì không bao giờ làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
Tu hành theo
Phật giáo mà không biết buông bỏ xuống tất cả chướng ngại pháp, không biết
thương yêu và tha thứ mỗi lỗi lầm của người khác thì dù có ngồi
thiền nhập định cả một, hai tháng, một năm hay hai, ba năm cũng chẳng làm chủ
sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Mục đích tu
hành của chúng ta ở đây là nhắm vào chỗ giải thoát ra khỏi nhà sinh tử luân hồi,
chứ không phải đi tìm thần thông phép lạ, một thế giới siêu hình hay ngồi thiền
nhập định không ăn uống một tháng hay nhiều tháng, ngồi bất động như người chết,
như cục đá, gốc cây.
Vì thế đức
biết tùy thuận, tha thứ và yêu thương là những phương pháp rất cần thiết cho
con đường tu tập giải phóng sinh tử luân hồi của chúng ta.
Trả lời
câu hỏi 14:
“Đừng cố
gắng bới móc lỗi lầm của người khác, hãy biết tha thứ, nhưng nên nghiêm khắc
nhìn lại mình”. Câu
này dạy ĐỨC HIẾU SINH NGHIÊM KHẮC CHÍNH MÌNH.
Tha thứ mỗi
lỗi lầm đối với người khác, nhưng đối với mình thì phải nghiêm khắc, không được
vi phạm những giới luật nhỏ nhặt, vì vi phạm vào những giới nhỏ nhặt là vi phạm
vào đức hạnh làm người, khiến cho mình khổ, người khác khổ. Nếu không tự nghiêm
khắc mình thì sẽ làm tay sai cho dục lạc và ác pháp. Làm tay sai cho dục lạc
và ác pháp là làm sai giới luật đức hạnh. Làm sai giới luật đức hạnh là làm khổ
mình, khổ người.
Không tự
nghiêm khắc mình trong kỷ luật, trong thiện pháp, trong đức hạnh, tâm sẽ buông
lung phóng dật chạy theo dục lạc và các ác pháp thế gian, thì tu hành chẳng ích
lợi gì, còn làm thêm tội lỗi. Tu hành không tự nghiêm khắc mình trong kỷ luật,
tu hành như vậy chẳng bao giờ đi đến đâu cả, chỉ uổng phí một đời tu hành mà
thôi.
Những người
tu hành luôn luôn bới móc lỗi lầm của người khác là những người xấu ác, không xứng
đáng là những người tu sĩ Phật giáo. Người tu sĩ Phật giáo không bao giờ bới
móc những lỗi lầm của người khác. Cho nên các tu sinh phải dè dặt, cẩn thận đừng
để vi phạm những lỗi lầm này. Những người vi phạm những lỗi lầm này thì phải xấu
hổ chừa bỏ, không nên tái phạm lại nữa. Còn tái phạm là không xứng đáng ở trong
tu viện, hãy hoàn tục ra đời như bao nhiêu người khác thì lại ít tội hơn.
Chính đức Phật
dạy: “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”. Thấy lỗi người là một
việc làm sai trong đạo Phật, huống là thấy lỗi người mà còn bới móc các lỗi cho
người này người kia biết thì đó là một tội ác quá lớn, quá sai. Thấy lỗi người
mà còn bới móc lỗi người là một người không xứng đáng làm người. Hãy từ bỏ ngay
những hành động ác pháp đó. Bới móc nói xấu lỗi người làm như vậy có lợi gì cho
mình đâu, mà còn làm thêm hại, thêm chướng ngại cho tâm mình, cho con đường tu
tập của mình không biết chừng nào xong.
Người tu
hành phải thấy cái sai, cái xấu, cái lỗi này. Phải cố gắng khắc phục và tự
nghiêm khắc với mình đừng để vi phạm vào những sai lầm này nữa.
Làm người tu
sĩ Phật giáo là người tu thiện pháp. Người tu thiện pháp còn bới móc những chuyện
xấu của người khác là không phải người tu thiện pháp. Người tu hành như thế
chúng ta cần nên cảnh giác tránh xa, vì những người như vậy là những người
không xứng đáng cho chúng ta làm bạn tu hành.
Trong bức
tâm thư này, người mẹ dạy con: “Đừng cố gắng bới móc lỗi lầm của người
khác, hãy biết tha thứ, nhưng nên nghiêm khắc nhìn lại mình”. Câu này
dạy đạo đức rất tuyệt vời, ở đời mà có người mẹ biết dạy con như vậy là phước
báu rất lớn. Người ngoài đời dạy còn như vậy, huống chi chúng
ta là những người tu hành theo Phật giáo. Sao chúng ta lại bới móc lỗi lầm của
nhau? Như vậy thì chúng ta còn xứng đáng là những người đệ tử Phật nữa hay
không?
Nếu thấy
chúng ta tự nghiêm khắc mình trong kỷ luật Phật, sống biết nhẫn nhục tùy thuận
và bằng lòng, hoặc sống độc cư trầm lặng một mình trong thất, ăn ngày một bữa
và sống thiểu dục tri túc, ít ham ngủ, ít sân hận thì nên ở lại tu viện tu
hành, rất xứng đáng, không nợ cơm ăn áo mặc của đàn na thí chủ. Còn sống giới
luật không nghiêm chỉnh, không giữ gìn các hạnh, không sống với đức hiếu sinh
thì làm sao tâm buông xả cho sạch những ác pháp; thì làm sao thân tâm tìm được
sự giải thoát, dù cho có tu bao lâu cũng không giải thoát.
Thấy sức
mình tu không nổi thì nên hoàn tục trở về đời sống như mọi người thì không phí
uổng cuộc đời, không làm phiền lòng người khác.
Cho nên người
tu hành theo Phật giáo đừng cố gắng bới móc lỗi lầm của người khác, hãy biết
tha thứ mỗi lỗi lầm và nên nghiêm khắc nhìn lại mình, thì sự tu hành mới đến
nơi đến chốn.
Trả lời
câu hỏi 15:
“Con hãy
cho, mà không cần nhận lại hay tính toán thiệt hơn, ngay cả khi cần được an ủi
nhất”. Câu này
dạy ĐỨC KHÔNG SO ĐO HƠN THIỆT HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người hay so
đo hơn thiệt là người không có đạo đức hiếu sinh, là người ích kỷ hẹp hòi, là
người toan tính thiệt hơn. Cho người một vật gì thì mong người trả lại thiệt
hơn từng chút. Ở đây người mẹ dạy con cho mà không cần nhận lại, dù là một lời
an ủi.
Chúng ta là
những đệ tử Phật giáo, khi cúng dường, bố thí là cầu mong hưởng được phước báu
nhân thiên, thì điều đó không đúng với tinh thần Phật giáo. Phật giáo dạy: Đem
cho hay giúp đỡ cho người khác một điều gì là vì người khác đang đau khổ, đang
gặp tai nạn, đang gặp sự bất an, v.v…
Đạo Phật dạy
bố thí mà không mong cầu trả lại, đó là dạy đem tình thương chân thật đến với mọi
người không phân biết kẻ giàu người nghèo, không phân biệt kẻ thân người sơ, kẻ
thiện người ác, dù người đó có tâm ác độc, hung dữ chửi mắng, mạ lị mạt sát, muốn
hại ta, nói xấu ta; dù người đó có tâm li gián gây chia rẽ chúng ta, nhưng
chúng ta phải thương yêu, phải giúp đỡ họ, khi những gì họ đang cần, giúp đỡ họ bằng
những ái ngữ an ủi, khích lệ, sách tấn để họ vượt lên mọi khổ đau, giúp họ để xả
bỏ tính hung dữ, tính ganh tị, v.v… Người nào đối xử với mình càng tệ, càng
hung ác xấu xa thì càng đối xử tốt với họ, để giúp họ ra khỏi sự mọi khổ đau, mọi
sự phiền não.
Đạo Phật dạy
chúng ta cho mà không cần ai biết ơn mình, cho mà không cần trả ân; cho mà
không mong ước cầu được phước báu nhân thiên. Người biết cách thức cho như vậy
là người có đầy đủ tình thương yêu nhiều hướng. Chính nhờ có lòng yêu thương
nhiều hướng, khi cho mới không cầu mong biết ơn và trả ơn; khi đã cho không so
đo hơn thiệt, không tính toán ít nhiều, chỉ biết ban cho, vì lòng thương yêu
chân thật tự trong thâm tâm.
Trả lời
câu hỏi 16:
“Con hãy
giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ những người cần cảm thông giúp đỡ xung
quanh”. Câu này
dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Chúng ta là
những người đệ tử Phật, khi đứng trước những người ác cần phải cảm thông với họ,
vì họ là những người đang đau khổ, đang ở trong các ác pháp, đang tự vầy vò
mình. Vì thế họ mới la hét, chửi mắng, mạ lị, mạt sát chúng ta được. Họ dùng lời
li gián, nói lời chia rẽ, nói xấu chúng ta, là vì họ đang căm tức và họ đang muốn
giết chúng ta. Họ là người bị vô minh che khuất, làm tâm trí mê mờ, chỉ còn biết
chạy theo tâm dục tham, dục sân; họ là những người đang đau khổ tận cùng, đáng
được mọi người cứu vớt. Do hiểu biết như vậy, chúng ta hãy ban cho họ lòng tha
thứ và thương yêu, hãy giang rộng vòng tay và chia sẻ, nâng đỡ và giúp họ để vượt
lên, lìa xa những điều họ đã làm ác ở trên. Nếu chúng ta biết giang rộng vòng
tay và chia sẻ, nâng đỡ và giúp họ để vượt lên những hành động ác mà họ đã làm ở
trên, thì đây là lòng yêu thương của chúng ta, là đức hiếu sinh ý hành, là tình
thương đem đến sự sống cho nhau một sự bình an, yên vui và tràn đầy hạnh phúc.
Đứng trước
các pháp ác, chúng ta làm được những điều trên đây, đều do xuất phát từ lòng
thương yêu rộng lớn. Nếu không có lòng thương yêu rộng lớn thì không thể giang
rộng vòng tay; thì không thể nào chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ họ. Bởi vậy đức
hiếu sinh rất tuyệt vời. Ngay khi chúng ta thương yêu thật sự thì đức buông xả
có ngay liền; đức buông xả có ngay liền thì lòng tha thứ và sự cảm
thông cũng có mặt ngay liền. Cho nên những ác pháp và ác ngữ kia sẽ không tác dụng
vào tâm ta được. Vì yêu thương mà tâm ta bình an; vì yêu thương mà ý hành, thân
hành và khẩu hành chúng ta không làm ác. Lòng yêu thương rất tuyệt vời, đứng
trước những ác pháp mà tâm ta bất động, không hề giận hờn hay thù oán một ai,
dù có ai muốn giết hoặc làm hại ta đau khổ đến tận cùng. Lòng yêu thương sẽ
giúp ta bình an và tha thứ; lòng yêu thương sẽ giúp ta thấy biết rất rõ mọi việc,
mọi pháp trên đời này đều do nhân quả, đều là vô thường, không có pháp nào là
thường hằng, không có pháp nào bất di bất dịch, cho nên cần phải thương yêu
nhau hơn, thương yêu nhiều hơn nữa để cho hành tinh bớt sự khổ đau, bớt sự giết
hại lẫn nhau; để cho hành tinh còn lại một màu xanh tươi mát; một màu xanh của
tình thương yêu.
Trả lời
câu hỏi 17:
“Vì trong
lúc chia sẻ với người khác, con sẽ tìm lại sức mạnh và niềm tin cho chính
mình”. Câu này
dạy ĐỨC CHIA SẺ HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người tu
theo Phật giáo bao giờ cũng nhớ rằng: Lúc nào cũng biết thương yêu, dù người
đáng ghét nhất, người ác nhất chúng ta cũng chỉ biết thương họ,
chứ không vì họ ác độc và hung dữ mà không thương. Biết họ là người hung ác,
nhưng lúc nào chúng ta cũng dùng ái ngữ ban rải một lòng yêu thương cho họ, vì
họ là những người đáng thương. Bởi chúng ta biết người hung ác là người đau khổ
nhất, vì vậy nên chúng ta không tức giận, không oán trách, mà còn tìm cách vui
vẻ, im lặng, thương họ, đó cũng là điều chia sẻ nỗi đau với họ.
Khi chúng ta
biết mình chưa đủ khả năng thu nhiếp những người ác thì nên xa lánh họ, để
không làm khổ mình, khổ người thêm. Một khi chúng ta chưa đủ lòng tin của mọi
người, lời nói chưa đủ giá trị có thể chuyển đổi, làm thay đổi tâm tính ác của
họ thì chúng ta không nên gần gũi, mà tránh xa họ như đức Phật thường dạy: “Những
gì tránh né cần phải tránh né”. Tuy chúng ta không hàng phục được,
không chuyển hóa được họ, nhưng chúng ta vẫn thương họ, không hề có một ý nghĩ
gì ghét họ. Đó chính là đức hiếu sinh không làm khổ mình, không làm khổ người.
Những khi họ
gặp tai nạn, hay có sự đau khổ, bệnh tật gì xảy đến cho họ, thì chúng ta mau sẵn
sàng chia sẻ, an ủi và giúp đỡ với lòng thương chân thật.
Mục đích của
người tu hành theo Phật giáo trước tiên là phải biết tha thứ mỗi lỗi lầm của
người khác, và sau đó mới giúp đỡ an ủi họ, nhờ đó mà thân tâm chúng ta sẽ được
thanh thản, an lạc và vô sự.
Biết tha thứ và chia sẻ với những người khác, đó là đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh bằng hành động giúp đỡ, bằng lời nói an ủi, ôn tồn, nhã nhặn, nhẹ nhàng, từ tốn, êm dịu và xoa dịu những vết thương đau của tâm hồn và cơ thể của người khác. Có thực hành được như vậy thì đó mới gọi là thương người, thương mình. Chính nhờ đó mà chúng ta mới sống cho chính mình, mới hiểu mình, mới cứu mình ra khỏi mọi sự khổ đau của cuộc đời.
Người biết
thương mình, thương người là người biết buông xả tất cả ác pháp trên thế gian
này, là người đã vượt lên tất cả tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình; là người
cùng đi một lối đi như Phật. Tâm chỉ biết thương, chứ không còn biết ghét một
ai cả, không còn biết ghét một cái gì cả. Vì trên cuộc đời này tất cả các pháp
đều vô thường, dù cho chúng ta có ghét cay, ghét đắng một cái gì đó, thì mai
kia mốt nọ nó cũng không còn. Khi mà tất cả các pháp đều không còn thì chúng ta
ghét cái gì đây? Chính vì sự oán ghét, giận hờn sẽ quay ngược lại, làm cho
chúng ta khổ đau thêm, chứ chẳng có ích lợi gì đâu. Phải không quý vị?
Bởi hiểu rõ
các pháp vô thường nay còn, mai mất, không có pháp nào thường hằng bất di bất dịch,
vì thế chúng ta cần phải thương yêu và tha thứ mọi người; cần phải thương yêu
và giúp đỡ để mọi người vượt qua những khó khăn và gian khổ; để làm giảm bớt những
sự đau khổ của cuộc đời, chính đó là đức hiếu sinh mà mọi người cần phải học tập
cho thông suốt, và sống để đem lại cho hành tinh một màu xanh tươi mát với một
lòng yêu thương chân thật.
Trả lời
câu hỏi 18:
“Đừng quá
thương hại mình, tự thương hại sẽ làm giảm sức mạnh vốn có của con”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH VÌ
NGƯỜI Ý HÀNH.
Người ích kỷ
cứ lo cho mình, vì thế mà phải chịu vô vàn đau khổ. Cho nên chúng ta thấy rất
rõ trong cuộc đời này, hầu hết mọi người ai cũng lo cho mình. Chúng ta là những
người tu hành theo Phật giáo, sống theo gương hạnh của đức Phật, chỉ biết
thương yêu mà thôi. Nhưng thương yêu như thế nào không phải là lời nói suông,
mà thương yêu bằng hành động giúp đỡ và an ủi, nhất là đem lại sự bình an, yên
vui cho mọi người. Bởi vậy đức hiếu sinh không bao giờ có lòng ích kỷ nhỏ mọn hẹp
hòi trong đó. Tâm lượng lòng yêu thương rộng lớn như trời biển, dung chứa tất cả
cái xấu cũng như cái tốt, cái dơ cũng như cái sạch, lòng yêu thương ấy vẫn xem
như nhau.
Thương mình
mà cứ lo cho mình là không thương mình, là làm khổ mình. Còn thương người, lo
cho người, giúp đỡ cho người, đó mới chính thương mình, đem lại sự an vui cho
mình. Bởi vậy đức hiếu sinh thường quay ra soi chiếu vạn vật như mặt trời, mặt
trăng. Nhưng vì chính nó soi ra nên nó rất vững vàng, không vật gì làm lay động
được nó.
Người nào sống
với đức hiếu sinh luôn luôn thương yêu mọi người, mọi vật, thì
chính họ đã thương yêu họ. Nhờ đó không có một ác pháp nào tác động vào thân
tâm họ được. Họ là con người giải thoát; con người không còn đau khổ nữa; con
người vô lậu.
Trả lời
câu hỏi 19:
“Con hãy
nhớ rằng còn nhiều người yêu thương con”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH LÒNG TIN.
Đâu phải mọi
người đều ghét chúng ta hết đâu, chính vì còn có nhiều người thương yêu chúng
ta. Đây là lời trong thư người mẹ dạy con, nó mang một tình thương mở rộng,
nhưng đối với chúng ta là những người tu hành theo Phật giáo, với cái nhìn của
chúng ta, không phải còn có nhiều người thương yêu chúng ta, mà tất cả mọi người
đều thương yêu chúng ta. Chúng ta hãy nghe ông Phú Lâu Na trả lời với Phật:
- Xứ ấy người ta hung dữ, họ sẽ chửi
mắng ông.
- Bạch Thế Tôn! Họ chửi mắng con,
nhưng họ còn thương con, vì chưa lấy đá ném con.
- Người ta sẽ lấy đá ném ông.
- Bạch Thế Tôn! Họ lấy đá ném con
nhưng họ còn thương con, vì họ chưa lấy dao giết con.
- Họ sẽ lấy dao giết ông.
- Bạch Thế Tôn! Họ lấy dao giết con,
nhưng họ còn thương con, vì để thân này sống là con còn khổ đau, do đó họ
cầm dao giết con để con hết đau khổ là thương con.
Tất cả mọi
ác pháp đến với ông Phú Lâu Na, ông đều thấy chỉ có một lòng thương yêu mà
không thấy một cái gì khác. Chính thấy mọi người đều thương ông nên ông không
còn khổ đau, ông đã giải thoát hoàn toàn. Chúng ta tu hành theo Phật giáo cũng
nên bắt chước ông, cũng nên tập sống như ông. Nếu ai có làm gì cho chúng ta đau
khổ thì chúng ta chỉ cần thấy lòng yêu thương của mọi người đến với chúng ta,
mà không thấy họ ghét chúng ta. Có tu tập được như vậy chúng ta sẽ chứng quả A
La Hán tại nơi lòng yêu thương đó. Tại nơi hiểu biết lòng tốt của mọi người.
Trả lời
câu hỏi 20:
“Và cuộc
sống của con có giá trị và ý nghĩa với người khác”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý
HÀNH DUNG THÔNG.
Cuộc sống của
mọi người, mọi vật trên hành tinh đều có một sự sống liên kết chặt chẽ với
nhau, người này nương tựa vào người kia, người kia nương tựa vào người này mà sống;
người nương với vạn vật mà sống, vạn vật nương tựa vào người mà
sống. Nếu chúng ta không biết sự sống có liên kết với nhau như vậy nên thường
nghĩ rằng: Trên đời này chỉ có mình là trên hết, xem mọi người, mọi vật không
ra gì, lúc nào cũng dữ tợn, la hét, chửi mắng, nói nặng, nói nhẹ, đánh đập người
khác, còn đối với loài vật thì giết hại và ăn thịt, luôn luôn chà đạp lên sự sống
của người khác, vật khác. Do không hiểu biết sự sống có sự liên kết chặt chẽ với
nhau, chúng ta mới làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài vạn vật, cho đến cỏ
cây, đất đá, núi sông.
Bởi vậy, chỉ
có đức hiếu sinh mới dung thông người này với người kia, người kia với người nọ;
loài vật với con người, con người với loài vật; loài vật với cỏ cây, cỏ cây với
loài vật. Nhờ có hiểu biết thương yêu và sống dung thông với nhau như vậy, nên
mới đem lại sự bình an cho nhau. Ngoài đức hiếu sinh ra, thì không có một
phương pháp nào dung thông mọi người, mọi vật gần gũi, gắn bó, liên kết với
nhau được.
Trong sự sống
của người này thì có sự sống của người kia, trong sự sống của con người có sự sống
của vạn vật, trong sự sống của vạn vật có sự sống của con người.
Cho nên chúng ta chà đạp lên sự sống của người khác, chính là chà đạp lên sự sống
của chúng ta. Chúng ta làm khổ người khác chính là chúng ta làm khổ chúng ta.
Quý vị có biết không?
Chúng ta
thương yêu người khác chính là chúng ta thương yêu chúng ta. Bởi vậy chỉ có đức
hiếu sinh là đệ nhất pháp đem đến sự bình an cho mọi người, mọi vật. Hạnh phúc
thay, ai đã sống với lòng yêu thương chân thật!
Trả lời
câu hỏi 21:
“Con đừng
ngại mở lòng với tình yêu thương, vì chỉ có tình cảm thật sự mới giúp con tìm
được chính mình”. Câu
này dạy ĐỨC CHÂN THẬT HIẾU SINH Ý HÀNH.
Chỉ có lòng
yêu thương mọi người, chúng ta mới tìm thấy lại chính mình. Đúng vậy, lời người
mẹ dạy con rất đúng: “Con đừng ngại mở lòng với tình yêu thương, vì chỉ
có tình cảm thật sự mới giúp con tìm được chính mình”.
Trên đời này
chỉ có lòng yêu thương mọi người, mọi vật, mọi sự sống trên hành tinh này thì
chúng ta mới hiểu mình. Có hiểu được mình, chúng ta mới cảm thông được với mọi
người, mọi vật. Có hiểu được mình và sự sống của muôn loài, thì
chúng ta mới sống cho mình chân thật. Còn nếu chưa có lòng yêu thương chân thật,
thì chúng ta sẽ sống một cách giả dối với mình, với người. Một khi mà lòng yêu
thương chân thật không có, thì cuộc sống trở nên vô nghĩa, có nhiều sự giả dối,
có nhiều gian ý xảo trá, không những đối với mọi người, mà ngay cả bản thân của
chúng ta vẫn bị nó lừa đảo. Cho nên người tu hành chân chánh lúc nào cũng quý
trọng lòng yêu thương. Chính lòng thương yêu sẽ giúp họ hoàn thành con đường tu
tập đi đến cứu cánh giải thoát.
Chỉ vì con
người thiếu lòng yêu thương nên họ chẳng biết họ là ai? Có đúng như vậy không?
Vậy ai là
người hiểu mình, hãy trả lời theo những câu hỏi sau đây:
1- Anh là
ai?
2- Từ đâu
sinh vào đây?
3- Đến
đây để làm gì?
4- Bao
lâu nữa mới chết?
5- Chết
đi về đâu?
Ai là người
đã hiểu biết mình thì hãy trả lời những câu hỏi này đi!
Chúng tôi
tin chắc rằng mọi người sinh ra trên hành tinh này chưa ai trả lời đúng những
câu hỏi này. Chưa trả lời đúng những câu hỏi này là chưa có đức hiếu sinh, vì
chưa có đức hiếu sinh nên họ không làm sao hiểu được họ. Thường thường người ta
sống theo bản năng thói quen, tức là sống theo nghiệp báo của nhân quả, chứ
không phải sống theo sự tự chủ điều khiển thân tâm, nhưng họ cứ nghĩ tưởng rằng
mình đang sống tự chủ. Kỳ thực, họ sống theo tâm tham, sân, si, mạn, nghi; họ sống
theo các dục, chứ chẳng có gì là sống cho họ cả. Họ là những người nô lệ cho
nghiệp báo; họ là những tay sai cho giặc sinh tử luân hồi; họ là một con người
mất tự chủ, mất tự do, mất quyền sống. Chính vì họ không hiểu họ, có đúng như vậy
không quý vị?
Ví dụ: Họ muốn
ăn là họ sống theo dục ăn, chứ đâu phải họ sống chủ động theo ăn của họ; họ muốn
đi nói chuyện là họ đi nói chuyện, đó là họ sống theo dục nói chuyện, chứ đâu
phải họ sống cho họ; họ muốn ngủ là họ đi ngủ, đó là họ sống theo dục chứ đâu
phải phải họ sống cho họ đâu. Họ đâu biết cái ăn, cái ngủ, cái vui chơi, cái
nói chuyện là cái dục của nhân quả nghiệp báo từ vô lượng kiếp của họ. Do nhân
quả nghiệp báo này che khuất, nên làm sao họ biết họ là gì? Là ở
đâu đến…?
Người nào muốn
biết mình là ai, ở đâu đến, thì hãy sống với lòng thương yêu rộng lớn như đất
trời, thì mới biết mình từ đâu đến, và như vậy họ mới sống cho mình. Còn không
thì họ cứ phải sống theo nghiệp báo nhân quả mãi.
Trả lời
câu hỏi 22:
“Hãy chia
sẻ niềm vui và nỗi buồn với người con yêu quý”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý
HÀNH CHAN HÒA TÌNH THƯƠNG.
Mọi người sống
trên đời này đều là những người mà chúng ta cần phải yêu quý. Chúng ta đừng thấy
họ hung ác, dữ tợn mà ghét cay, ghét đắng họ. Thấy người hung dữ, chúng ta lại
còn yêu thương họ nhiều hơn nữa, vì họ đang ở trong ác pháp, đang chịu nhiều
đau khổ. Chúng ta hãy xem họ là những chướng ngại pháp nghịch duyên để giúp
chúng ta suy xét lại chính mình, hiểu lại chính mình hơn; họ là tấm gương để
soi lại mình, để mình tránh những tánh tình hung ác dữ tợn. Nhờ đó, chúng ta mới
thấy chính mình có sống với đức hiếu sinh hay chưa sống. Qua sự nghịch duyên
chướng ngại pháp, mình mới thấy rõ mình. Nếu không có nghịch duyên chướng ngại
pháp thì mình rất khó thấy mình. Có đúng như vậy không quý vị?
Cho nên
chúng ta nói yêu thương người, nhưng thường là nói trong thuận cảnh, nói bằng lời
nói suông, chớ nói trong nghịch cảnh mới biết rõ lòng mình có thương hay không
thương.
Cho nên đức
hiếu sinh bao gồm cả thiện pháp và ác pháp. Câu trên dạy: “Hãy chia sẻ
niềm vui và nỗi buồn với người con yêu quý”. Niềm vui là thiện pháp, nỗi
buồn là ác pháp, nhưng đối với người có đức hiếu sinh, gặp vui thì chia sẻ với
mọi người, gặp buồn thì chuyển đổi làm cho mình và mọi người cùng vui.
Đức hiếu
sinh đến đâu là phải có trí tuệ sáng suốt đến đó, vì thế gặp ác pháp thì nó
chuyển đổi thành thiện pháp. Cho nên đức Phật dạy: “Tri kiến ở đâu thì
giới luật ở đó, giới luật ở đâu là tri kiến ở đó”. Lời dạy này có
nghĩa là: “Lòng yêu thương ở đâu thì tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu thì
lòng yêu thương ở đó”. Có hiểu biết thì mới có lòng yêu thương chân thật,
nhưng lòng yêu thương của con người bị vô minh che khuất nên làm sao hiểu biết
được, và do đó lòng yêu thương của con người chỉ còn có một hướng; vì một hướng nên
thường làm khổ mình, khổ người.
Người tu học
đức hiếu sinh thường áp dụng vào đời sống thì cuộc sống không còn khổ đau, phiền
muộn nữa; không còn lo lắng, sầu khổ nữa. Các tu sinh hãy cố gắng tu học đức hiếu
sinh, vì nó đem lại lợi ích rất lớn, nó giúp cho các tu sinh chứng đạo vô lậu.
Trả lời
câu hỏi 23:
“Tình yêu
thương luôn là điều kỳ diệu, để vượt qua những thử thách, khó khăn!”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý
HÀNH VƯỢT QUA.
Đức hiếu
sinh là một tình thương yêu kỳ diệu, nó vượt qua mọi sự thử thách gian nan, mọi
sự khó khăn gian khổ.
Chúng ta là
những người theo Phật giáo tu hành, nên nay đã đủ duyên lành mới được dự vào lớp
học đạo đức NGŨ GIỚI như thế này. Nó là một lớp học đạo đức cụ thể rõ ràng,
mang đến sự lợi ích to lớn vô cùng cho mình cho người. Nếu chúng ta biết rõ như
vậy, thì nên cố gắng và rèn luyện nhân cách của mình hằng ngày, đừng để phí bỏ
thời gian tuổi đời sắp hết:
1/ Thứ nhất
là phải biết sống với ĐỨC NHẪN NHỤC HIẾU SINH Ý HÀNH, để đối trị các
ác pháp đang tấn công quyết tử với chúng ta, trong mặt trận sinh tử luân hồi, bằng
cách phải tư duy:
1.1- “Đây
là NGHIỆP NHÂN QUẢ vay trả, ta hãy vui vẻ im lặng như Thánh, chấp nhận trả quả
báo tâm không được tức giận hay buồn phiền, và đây cũng là sự nhắc nhở cho ta từ
bỏ những hành động thân, khẩu, ý ác, mà phải sống thân, khẩu, ý toàn thiện”.
1.2- “Đây
là người đang tạo nhân ác, họ phải gặt lấy quả khổ đau, sau này không thể tránh
khỏi bệnh tật, tai nạn, và người khác mắng chửi lại, v.v… Vậy ta phải thương
yêu họ, vì họ đang chửi mắng ta là họ đau khổ lắm, họ đang ở trong địa ngục”.
Khi quán xét
tư duy như vậy thì tâm chúng ta sẽ bất động, không còn phiền não tức giận nữa.
2/ Thứ hai
là phải biết sống với ĐỨC NHẪN NHỤC HIẾU SINH KHẨU HÀNH, để đối trị các ác pháp
đang tấn công quyết tử với chúng ta, trong mặt trận sinh tử luân hồi, bằng cách
phải nói hoặc im lặng như Thánh:
2.1-
“Chúng ta là bạn bè cùng nhau, nếu tôi có sai điều gì không phải với các bạn,
thì xin các bạn thứ lỗi cho”.
2.2- “Các
cháu có làm cho bác không vui điều gì, tôi là cha chúng nó, xin
bác vui lòng thứ lỗi cho, tôi sẽ rầy dạy các cháu lại. Mời bác vào nhà uống với
tôi một chén trà cho vui”.
Đây là hai
ví dụ xin lỗi để các tu sinh nghiên cứu, vì xin lỗi cũng là một đức hạnh hiếu
sinh khẩu hành diệt ngã xả tâm rất tuyệt vời.
Bất cứ một
điều gì xảy ra, nếu chúng ta cứ thấy lỗi của mình, đừng thấy lỗi của người
khác, luôn luôn thành khẩn xin lỗi thì mọi việc đều an vui và chuyển đổi được
nhân quả một cách dễ dàng.
3/ Thứ ba là
phải biết sống với ĐỨC NHẪN NHỤC HIẾU SINH THÂN HÀNH, để đối trị các ác pháp
đang tấn công quyết tử với chúng ta, trong mặt trận sinh tử luân hồi, bằng cách
phải sống với những hành động nhẹ nhàng:
Lúc thấy người
khác đang nóng giận lấy cây, gậy gộc, dao mác, rựa để đánh chúng ta, thì ngay
lúc đó chúng ta chạy đi, bảo người nhà phải im lặng như Thánh, dù họ có đập phá
nhà cửa cũng không được đánh lại với nhau, mà chỉ nhờ chánh quyền địa phương đến
để giữ gìn trật tự an ninh trong xóm ấp mà thôi.
Nếu người ấy
có lỗi, bị chánh quyền phạt vạ, thì mình nên xin chánh quyền bãi nại và chịu tiền
phạt thay ông ta.
Trả lời
câu hỏi 24:
“Hãy gìn
giữ những ký ức, kỷ niệm đẹp”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH LƯU GIỮ.
Thường kinh
sách Phật dạy:
“Quá khứ
không truy tìm
Vị lai
không ước vọng
Chỉ có
pháp hiện tại
Tuệ quán
chính là đây…”.
Ví dụ: Cái
chết của con chim ưng vì hy sinh mạng sống cứu Thành Cát Tư Hãn, vết thẹo trên
mặt của người mẹ vì hy sinh che chở cho con, lòng nhân từ của vị tỳ kheo, v.v…
Làm sao chúng ta quên được những lòng yêu thương ấy.
Công ơn cha
mẹ sinh thành chịu biết bao cực khổ nuôi dạy cho chúng ta nên người: Từng nụ
hôn của mẹ của cha, từng những buổi hoàng hôn mẹ ngồi tựa cửa trông con đi học
hoặc đi làm về, mẹ có món ăn ngon nào cũng để dành cho con, v.v… Những
hành động như vậy làm sao chúng ta quên được.
Một hành động
dắt một bà lão hay một em bé qua đường, giúp một bát cơm cho người đang đói, vớt
một con kiến thoát chết trong vũng nước, v.v… Tất cả những hành động hiếu sinh
này làm sao chúng ta quên được. Phải không quý vị?
Càng nhớ những
hành động này, chúng ta lại khởi lòng yêu thương hơn, vì chúng ta đem lại sự an
vui cho người, cho vật. Một sự sống bình an tươi đẹp.
Cho nên đối
với đức hiếu sinh, những kỷ niệm, những hồi ức thương yêu đã qua giúp cho chúng
ta lấy làm đà phát triển lòng yêu thương cho hiện tại. Cho nên Định Vô Lậu đi
vào tâm thanh tịnh bằng con đường tri kiến giải thoát, vì thế đức Phật đã dạy: “Tri
kiến làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh tri kiến”. Chứ
đâu phải đi con đường tỉnh thức như từ lâu chúng ta chỉ hiểu một cách đơn điệu:
Sự giải thoát chỉ có sống trong hiện tại. Sự thật chưa phải vậy. Vậy mà có số
người chẳng hiểu Phật pháp ra sao cả, chỉ hiểu theo xu hướng tưởng giải của mọi
người rất nông cạn, triển khai pháp hiện tại để tu tập; để sống trong hiện tại.
Họ chỉ ức chế tâm mà không biết, thật là ngu si vô cùng.
Pháp hiện tại
chỉ có Pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác và pháp Thân Hành Niệm. Các pháp đó tu tập để
an trú thân tâm khi thân có bệnh, chứ đâu phải pháp tu tập để giải thoát tâm vô
lậu. Xin quý vị nên lưu ý: Xe trước sụp lầy xe sau phải tránh.
Trả lời
câu hỏi 25:
“Một khi
lòng yêu thương, tình yêu thương gặp trắc trở hay có sự đổi thay, mất mát, thì
con đừng vội xóa đi những gì đã từng là của con”. Câu này dạy ĐỨC LƯU GIỮ HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Đức hiếu
sinh lúc nào cũng ở trong chúng ta, nó chính là ta, ta chính là nó. Cho nên dù
chúng ta có gặp những sự trắc trở khó khăn, hay có sự đổi thay thình lình nào,
thì đừng vội quên lòng yêu thương, vì quên lòng yêu thương là mọi ác pháp sẽ tấn
công và làm chúng ta đau khổ nhiều hơn. Đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi sự thay đổi
dù khó khăn như thế nào, chúng ta luôn luôn giữ gìn đức hiếu sinh như bóng
không rời hình. Nếu đức hiếu sinh có mặt thì các ác pháp không bao giờ có; ác
pháp không có mặt là tâm chúng ta bất động; tâm chúng ta bất động là chúng ta
đã tìm được mục tiêu cứu cánh cho chính mình. Cho nên lòng thương yêu ở đâu là
sự giải thoát ở đó. Quý vị nên nhớ kỹ, dù có gian nan, lao khổ
nhọc nhằn đến đâu, cũng không nên lìa lòng yêu thương của quý vị. Quý vị có nhớ
không?
Trả lời
câu hỏi 26:
“Con luôn
hiểu là tình yêu thương trong con không thể mất, nó luôn hiện hữu trong tâm hồn,
cho dù có thể nó có lúc không còn tồn tại”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH LÀ MÌNH, MÌNH LÀ ĐỨC
HIẾU SINH.
Lòng thương
yêu lúc nào cũng hiện hữu trong chúng ta, nó không bao giờ mất, nhưng chỉ vì
lòng tham dục, sân dục, si dục, mạn dục, nghi dục che khuất, như mặt trăng, mặt
trời bị mây đen che mà thôi. Cho nên các ác pháp như đám mây đen, còn lòng yêu
thương như mặt trời, mặt trăng. Muốn mặt trời, mặt trăng hiện rõ, thì chỉ cần dẹp
sạch những đám mây đen, cũng như muốn có lòng yêu thương thì chỉ cần phá dẹp
tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà thôi. Tâm hết tham sân, si, mạn, nghi thì lòng yêu
thương sẽ hiện bày.
Bởi những
người tu theo Phật giáo là những người muốn tìm đường thoát bốn nỗi khổ: sinh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, thì việc đầu tiên là phải bảo vệ TÂM, tức
là bảo vệ tinh thần, lúc nào cũng phải giữ gìn tâm được thanh
thản, an vui và vô sự.
Muốn được
tâm lúc nào cũng được thanh thản, an lạc và vô sự thì phải giữ gìn lòng thương
yêu rộng lớn như đất trời, lúc nào cũng hiện hữu lòng yêu thương không được mất,
dù trong một phút, một giây nào cũng không được mất; dù trong cảnh thuận hay cảnh
nghịch cũng không được đánh mất. Nói chung là tất cả thời gian nào, hoàn cảnh
nào và các ác pháp nào cũng không được để cho tâm bất an, mà phải bảo vệ tâm
thanh thản, an lạc và vô sự.
Các tu sinh
nên ghi nhớ: Lòng yêu thương của đạo đức nhân quả lúc nào nó cũng cân bằng hai
vế: “THƯƠNG MÌNH, THƯƠNG NGƯỜI”, nếu chỉ thương có một vế, đó là lòng yêu
thương một hướng; còn có đủ cả hai vế thì đó là là lòng yêu thương nhiều hướng.
Người tu hành cần phải có lòng yêu thương nhiều hướng. Chính nó là pháp môn cứu
cánh, trợ giúp chúng ta ly dục, ly ác pháp, đem lại sự bình an cho mình, cho
người, cho tất cả chúng sinh và cỏ cây đất đá núi sông, thời tiết khí hậu. Vì
thế đức hiếu sinh rất quan trọng cho đời sống hiện hữu của chúng ta, đem lại sự
bình an cho hành tinh.
Trả lời
câu hỏi 27:
“Khi người
khác mang trái tim họ ra đi, thì trái tim người ở lại vẫn còn nguyên vẹn”. Câu này dạy ĐỨC TỒN TẠI HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Lời dạy này
rất tuyệt vời, khi một người không còn yêu thương ta nữa, nhưng lòng yêu thương
chúng ta không bao giờ mất đối với họ. Đó mới được gọi là đức hiếu sinh.
Ví dụ: Họ chửi
mắng, mạ lị, mạt sát, v.v.. chúng ta, chúng ta phải có hai phần tư duy và xác định:
- Một là
vì họ yêu thương chúng ta có một hướng, nên họ đòi hỏi sự thương yêu của chúng
ta cũng giống như họ, khi không đạt được ý muốn như vậy nên họ thành sân hận,
ghét giận chúng ta.
- Hai là
vì họ đánh mất lòng yêu thương nhiều hướng đối với chúng ta, nên thành ra họ
ghét và căm tức chúng ta.
Dù cho họ có
yêu thương chúng ta hay không thương yêu chúng ta, đó là họ tự làm khổ họ,
nhưng riêng chúng ta quyết định phải giữ lòng thương yêu nhiều hướng. Chính vì
lòng yêu thương nhiều hướng, giúp chúng không ghét ai hết, không nghĩ xấu ai hết, nhờ
đó đứng trước người ác, người oán ghét, người thù hận chúng ta vẫn an nhiên bất
động tâm. Chúng ta vẫn thản nhiên chẳng hề có chút lòng oán ghét, thù hận, vì
lòng thương yêu có trong chúng ta, thì làm sao có sự thù hận, oán ghét người
khác được.
Lòng yêu
thương tuyệt vời như vậy, dù ai có thương mình hay không thương mình, nhưng
riêng mình nhất định phải ôm chặt lòng thương yêu, không bao giờ buông xả nó;
không bao giờ lìa xa nó, vì chỉ có lòng yêu thương mọi người mà chúng ta có được
thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Lòng yêu thương là DỤNG của sự giải
thoát, của Niết Bàn. Còn tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là THỂ của sự
giải thoát, của Niết Bàn.
Cho nên lòng
yêu thương có mặt là Niết Bàn có mặt, Niết Bàn có mặt là lòng yêu thương có mặt.
Đạo Phật là
đạo từ bi, từ bi là lòng thương. Như vậy đạo Phật là đạo yêu thương yêu mọi người,
mọi vật. Bởi có yêu thương là có yên vui, có yên vui là có giải thoát, có giải
thoát là có ly dục, ly ác pháp. Có đúng như vậy không quý vị?
Trả lời
câu hỏi 28:
“Nhưng
người ta có khuynh hướng tự dằn vặt, tự hành hạ cho đến khi trái tim của mình
rướm máu, đau đớn tột cùng mới nhìn lại sự việc”. Câu này dạy ĐỨC BẢO TRÌ HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Đời sống hằng
ngày phần đông con người không hiểu đức hiếu sinh, nên lòng thương yêu của họ
chỉ có một hướng, lòng thương yêu một hướng, nên khi đặt không đúng hướng, đúng
chỗ theo ý họ, thì họ đâm ra căm tức và oán ghét. Do đó khi nào không đạt được
ý muốn là họ trở nên đau khổ phiền não. Khi đau khổ và phiền não là tự họ dằn vặt,
hành hạ họ. Càng dằn vặt, hành hạ là họ tự làm khổ họ nhiều thêm. Lúc bấy giờ họ
đã tự đánh mất đức hiếu sinh. Cho nên khi thấy ai to tiếng, la hét, giận hờn là
biết ngay họ đã đánh mất lòng yêu thương. Thật tội nghiệp!
Đoạn văn này
nghe đến những chữ “trái tim rướm máu”. Trái tim rướm máu là
nói đến sự đau khổ tận cùng của con người, khi yêu thương mà bị đánh mất yêu
thương thì trái tim phải rướm máu chứ sao?
Người ta tự
nghi ngờ người này không tốt đối với mình; nghi người kia nói xấu mình; nghi
người nọ tham lam trộm cắp, v.v… Sự nghi ngờ như vậy là tự
mình đánh mất lòng yêu thương của mình; đánh mất lòng yêu thương của chính mình
là tự làm khổ mình. Khổ nhất của họ là luôn luôn cứ để mắt theo dõi người này
người kia, trong lòng bất an, lo sợ người ta nói xấu mình.
Khi mình
không tin một người nào thì mình đã đánh mất lòng yêu thương; lòng yêu thương
đánh mất thì những hành động làm đau khổ cho mình, cho người càng tăng thêm
trùng trùng, ác pháp sẽ vây quanh mình, khiến cho thân tâm mình bất an, không
có phút nào thân tâm được thanh thản, an vui và vô sự. Thật tội nghiệp!
Chúng ta hãy
nghe người mẹ dạy con: “Nhưng người ta có khuynh hướng tự dằn vặt, tự
hành hạ cho đến khi trái tim của mình rướm máu, đau đớn tột cùng mới nhìn lại sự
việc”. Người ngoài đời họ làm sao biết đức hiếu sinh. Họ chỉ biết
thương với lòng thương yêu chiếm hữu một hướng.
Ví dụ: Cha mẹ
thương con, họ muốn con họ phải làm theo ý họ, nhưng chưa chắc ý của cha mẹ là
hoàn chỉnh. Bởi vậy cha mẹ chỉ có lòng thương yêu một hướng, bắt con mình cũng
theo hướng đó, vì thế làm cho con mình rất khổ.
Lòng yêu
thương của mọi người hiện nay là lòng yêu thương theo kiểu truyền thống “cha
truyền con nối”. Do đó, càng yêu thương nhiều càng khổ đau nhiều; càng yêu
thương nhiều càng làm cho mình khổ, người khác khổ. Vì thế, chúng ta học theo
Phật giáo thì phải thương yêu nhiều hướng. Nhờ có lòng thương yêu nhiều hướng
mà chúng ta không làm khổ mình, khổ người; nhờ có lòng thương yêu nhiều hướng
nó mới phá và dẹp sạch những ác pháp, diệt trừ tất cả tâm tham, sân, si, mạn,
nghi. Lòng yêu thương nhiều hướng có lợi ích rất lớn như vậy, nó đem lại sự sống
bình an cho mọi người.
Các tu sinh
phải suy xét cho kỹ, khi nào thấy tâm mình NGHI NGỜ ai đó thì biết mình đã đánh
mất lòng yêu thương của mình, và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt chính mình;
khi nào thấy tâm mình THAM DỤC, thì biết đó là mình đã đánh mất lòng yêu thương
của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt mình; khi nào thấy tâm mình SÂN
HẬN ai đó thì biết mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang
tự hành hạ dằn vặt mình; khi nào thấy tâm mình SI MÊ thì biết đó là mình đã
đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt mình;
khi nào thấy tâm mình KIÊU MẠN, xem mọi người không bằng mình
thì biết đó là mình đã đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự
hành hạ dằn vặt mình; khi nào thấy tâm mình NGHI NGỜ thì biết đó là mình đã
đánh mất lòng yêu thương của mình và chính mình đang tự hành hạ dằn vặt làm đau
khổ mình.
Cho nên đánh
mất lòng thương yêu của mình là đánh mất linh hồn và sức khỏe của chính mình.
Trả lời
câu hỏi 29:
“Con hãy
cố gắng đừng để mất theo những điều không đáng mất khác, như sức khỏe, thời
gian, niềm tin ở chính mình và các mối quan hệ khác”. Câu này dạy ĐỨC BẢO TRÌ HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Khi người ta
đánh mất lòng yêu thương là người ta đã mất tất cả như: tinh thần, sức khỏe, niềm
tin và các mối quan hệ khác nữa. Vì thế lòng thương yêu rất quan trọng. Nó là
linh hồn, là mạng sống của chúng ta.
Người ở đời
không thấy, không biết, không nghe đến đức hiếu sinh bao giờ, nên vì thế họ
luôn luôn sống trong đau khổ, thường làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài vạn
vật.
Học đến đây,
quý vị tu sinh mới thấy đức hiếu sinh là một pháp môn xả tâm tuyệt vời, không
có phương pháp xả tâm nào hơn nó được.
Tứ Vô Lượng
Tâm lòng từ là đệ nhất pháp, cho nên có rất nhiều đệ tử của Phật do lòng từ mà
chứng quả A La Hán như ông Phú Lâu Na, em ông Cấp Cô Độc, v.v…
Hiện giờ quý
tu sinh đang theo học đức hiếu sinh, nhưng có mấy ai nhiệt tâm nhiệt tình sống
với nó đâu. Học đức hiếu sinh thấy biết rất rõ, rất hay, nhưng luôn luôn để vuột
tay, vì thế lúc bình thường tưởng như mình sống với đức hiếu sinh, nhưng khi hữu
sự thì đức hiếu sinh chạy đâu mất, chỉ còn một tâm sân giận, hoặc một sự phiền
não không thể nói ra được.
Người hay
nói xấu người khác cũng là người đánh mất đức hiếu sinh của mình. Họ quyết tâm
hại người khác bằng miệng lưỡi, làm cho thân bại danh liệt không ngoi đầu lên
được, không nhìn thấy mặt ai, nhưng họ quên khi nói xấu người khác thì chính họ
là người xấu. Họ tưởng nói xấu người khác họ là người tốt lắm sao?
Tự họ đã giết
chết họ, giết chết lòng yêu thương của họ, giết chết lòng tin của họ với mọi
người. Những người có đức hiếu sinh rất thương yêu cho những người này, vì nhân
quả họ phải trả vay, thọ khổ nhiều kiếp. Ngay cả kiếp này họ đang nói xấu người
khác là họ đã khổ đau. Họ lo lắng từng phút, từng giây; họ nghi ngờ người này,
người kia, rồi tiếp tục nói xấu, và cứ thế tâm họ bất an. Họ sống trong đau khổ
mà họ không biết. Họ tưởng nói xấu người khác là họ danh dự lắm sao!
Các tu sinh
học đức hiếu sinh thì nên cố gắng tránh nghi ngờ, vì chính nghi ngờ là sẽ nói xấu
người khác. Nghi ngờ rất là tai hại vô cùng, nó giết chết con người ghê gớm.
Trả lời
câu hỏi 30:
“Cuộc sống
của con liên quan đến nhiều người”. Câu này dạy ĐỨC ĐOÀN KẾT HIẾU SINH Ý HÀNH.
Cuộc sống của
chúng ta có liên quan mật thiết với mọi người, mọi vật xung quanh. Nếu tâm
chúng ta khởi lên những niệm bất thiện, thì ngay đó chúng ta đã tự làm khổ
mình, khổ người, vì thế lòng thương yêu không cho phép chúng ta nghĩ xấu người
nào hết. Tất cả mọi người đều tốt, dù cho họ đối xử với ta như thế nào chúng ta
cứ xem họ là người tốt. Chúng ta có nghe ông Phú Lâu Na không?
Ai làm hại
ông cách nào, nhưng đối với ông họ đều là người tốt; là người
còn thương ông. Chính đó là đức hiếu sinh phủ trùm tất cả ác pháp, khiến cho ác
pháp phải triệt tiêu, phải chấm dứt.
Cho nên đức
hiếu sinh rất tuyệt vời, nó sống chung với mọi người mà không làm khổ mọi người;
nó sống chung với mọi người mà không làm khổ mình.
Vậy tất cả
các tu sinh học đức hiếu sinh phải xem đức hiếu sinh là của báu của mình, tuy
nó không riêng của ai cả, nhưng ai ai cũng phải tự giữ gìn. Ai đã được sinh ra
làm người là phải bảo vệ nó như bảo vệ con mắt của mình.
Trên đời này
không vật gì quý giá bằng đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh là vàng, là ngọc, là kim
cương, là một vật trên đời này không có vật gì so sánh hơn được. Vậy chúng ta
hãy cố gắng giữ gìn và bảo vệ đừng để đánh mất. Đức hiếu sinh là một pháp môn
vi diệu nhất, hễ nó có mặt thì tất cả các ác pháp đều bị diệt trừ, vì vậy chúng
ta hãy bảo vệ và giữ gìn nó, luôn luôn sống với nó như hình với bóng.
Trả lời
câu hỏi 31:
“Hãy luôn
tin ở con người và khám phá những điều tốt đẹp riêng biệt của từng người”. Câu này dạy ĐỨC CHÁNH TÍN HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Đức tin là một
sức mạnh kinh thiên động địa. Đức tin rất mạnh, không có một sức mạnh nào hơn
được. Các nhà làm chính trị cũng như các nhà tôn giáo gieo vào lòng người dân
và vào lòng tín đồ một lòng tin mãnh liệt, thì chừng đó trước cái chết mọi người
sẽ lăn xả vào mà không hề sợ, họ sẽ không chùn bước trước những sự gian nan,
khó khăn nào. Cho nên các cuộc thánh chiến của các tôn giáo, khiến biết bao
nhiêu sinh mạng tín đồ phải chịu chết, cái chết một cách oan uổng, chết lớp này
thì lớp khác tiến tới không hề chùn bước, không hề sợ hãi. Có như vậy mới biết
lòng tin là một sức mạnh kinh khủng.
Người có
lòng tin thì làm tất cả công việc đều thành công. Người tu hành biết chọn pháp
đúng và đặt trọn lòng tin vào pháp tu hành đó, thì người ấy sẽ tu chứng đạo vô
lậu không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Đức hiếu
sinh cũng vậy, nếu ai đặt trọn lòng tin vào đức hiếu sinh, luôn luôn giữ gìn
cho trọn vẹn, thì việc xả tâm ly dục, ly ác pháp rất dễ dàng.
Đức Chánh
Tín Hiếu Sinh Ý Hành là một pháp môn tuyệt vời, nó sẽ mang đến
cho con người một tâm hồn giải thoát an vui; một tâm hồn vô lậu hoàn toàn thanh
tịnh. Đức chánh tín hiếu sinh ý hành sẽ đánh dẹp tâm tham, sân, si, mạn, nghi,
khiến con người không còn một chút xíu nào những tâm ác đó.
Nếu lòng tin
không có đối với đức hiếu sinh, thì sự tu hành không bao giờ có kết quả. Vậy
các tu sinh phải lưu ý: Nếu thấy mình chưa đủ lòng tin với đức hiếu sinh thì
nên rời lớp học càng sớm càng tốt, vì phước duyên mình không đủ để tu học theo
Phật giáo.
Như quý vị đều
biết, đạo Phật là đạo yêu thương (Đạo Từ Bi). Vậy quý vị không sống được với
tình yêu thương thì thử hỏi quý vị theo đạo Phật tu hành để làm gì? Có ích lợi
gì? Khi quý vị sống không có tín tâm với đức hiếu sinh thì quý vị lấy pháp gì
mà tu tập thiền định. Muốn bước vào tu tập thiền định của Phật giáo thì quý vị
hãy ly dục, ly ác pháp; nhưng ly dục, ly ác pháp thì chỉ có giới luật đức hạnh.
Vậy mà quý vị không tin giới luật thì quý vị lấy pháp nào tu tập thiền định.
Ngoài giới luật ra quý vị không còn pháp nào tu tập thiền định. Cho nên quý vị
sống phạm giới, phá giới là quý vị tu hành sai pháp.
Cho nên ngay
bây giờ, quý vị hãy đặt trọn lòng tin nơi đức hiếu sinh, nơi ánh đuốc hiếu sinh
nó sẽ soi đường cho quý vị đi trong đêm tối; nó là la bàn cho quý vị đi biển biết
đường vào bờ.
Trả lời
câu hỏi 32:
“Dù vậy,
cũng không nên đặt tất cả niềm tin của con vào một người, hay một sự việc mà
con chưa nắm vững, và nhìn thế giới qua lăng kính đó, để con không phải vất vả
trở về với chính mình, nếu có sự đổi thay xảy ra vì bất kỳ lý do gì”. Câu này dạy ĐỨC CHÁNH TÍN HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Nếu lòng tin
quý vị đặt sai pháp, nó sẽ biến quý vị trở thành những người mê tín, lạc hậu;
nó biến quý vị trở thành những người sống trong thế giới ảo tưởng, thế giới mơ
mộng Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn.
Nếu quý vị
có lòng tin thì phải đặt cho đúng pháp, đúng chỗ, đừng đem lòng tin đặt vào chỗ
không đúng, chỗ sai pháp. Vậy làm sao biết chỗ nào đúng, chỗ nào sai? Làm sao
biết pháp nào đúng, pháp nào sai?
Đức Phật đã
dạy: “Đừng có tin! Đừng có tin!… mà hãy tin những pháp nào đem lại lợi
ích cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh; những pháp nào là đạo đức, là
thiện pháp không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sinh thì hãy đặt lòng tin nơi pháp đó”.
Bởi vậy khi
có lòng tin, chúng ta còn phải suy tư tìm tòi nghiên cứu các tôn giáo và các
pháp cho kỹ lưỡng.
Có nhiều
pháp tưởng như thiện, nhưng coi chừng nó không thiện, như khí công, nhân điện,
ăn gạo lứt muối mè hay nhịn ăn trị bệnh…
Pháp nhân điện
trị bệnh, pháp nhịn ăn trị bệnh, pháp gạo lứt muối mè trị bệnh, pháp dưỡng sinh
trị bệnh, pháp thiền Yoga trị bệnh, v.v.. đều là tà pháp, bởi khi chúng ta tu tập,
hay dùng các phương pháp này để trị bệnh thì lại thành một thói quen mới, giống
như người nghiện ngập: còn dùng pháp thì hết bệnh, hết dùng thì bệnh trở lại.
Cho nên những pháp này đều dùng lực tưởng để lừa đảo thiên hạ.
Như trên đã
nói, những pháp này cũng giống như thuốc lá, thuốc phiện, thuốc lào, rượu, chè,
cà phê, v.v.. khi chưa nghiện ngập thì thôi, nhưng khi đã nghiện ngập thì rất
khó bỏ.
Ví dụ: Thân
có một loại bệnh nào đó, chúng ta ăn cơm gạo lứt muối mè, ăn để trị bệnh
đó, nhưng khi bệnh đó hết, thì chúng ta đã trở thành bệnh nghiện ngập gạo lứt
muối mè, lúc bấy giờ không ăn gạo lứt muối mè thì các loại bệnh lại đổ ra.
Nhân điện
cũng vậy, khi trị bệnh này hết thì có bệnh khác lại đổ ra, có bao giờ hết bệnh
đâu? Đó toàn là những ác pháp, nếu chúng ta chưa bị nhiễm mà đặt lòng tin nơi
các pháp đó rồi tu tập rèn luyện thì sẽ bị ô nhiễm.
Cho nên lòng
tin cần phải đặt cho đúng chỗ, đúng pháp thì mới có lợi ích cho mình, cho người.
Người hay nghi ngờ là người không có lòng tin; không có lòng tin thì làm việc lớn
không thành, tu hành không chứng quả. Người đánh mất lòng tin với chánh pháp của
Phật là người đánh mất đường tu.
Chánh pháp của
Phật giáo là GIỚI, ĐỊNH, TUỆ. Nếu giới luật đức hạnh không tu tập, mà tu tập
thiền định thì không bao giờ chứng đạo giải thoát, chỉ chứng thiền tưởng chẳng
lợi ích gì cho ai cả.
Lòng tin rất
quan trọng, nhưng phải biết đặt nó cho đúng pháp. Lòng tin mà đặt đúng pháp tức
là đặt đúng vào đức hiếu sinh, thì ngay đó chúng ta liền tìm thấy con đường
thoát khổ.
Con đường
thoát khổ là con đường không còn dục và ác pháp. Muốn đạt sự giải
thoát này thì duy nhất chỉ có giới đức hiếu sinh như chúng tôi đã thường nhắc
nhở ở trên. Đức hiếu sinh rất tuyệt vời, nó biến chúng ta trở thành những con
người có tâm hồn cao thượng, biết thương yêu và tha thứ, không bao giờ làm khổ
một ai.
Trả lời
câu hỏi 33:
“Con đừng
ngại đối diện với nỗi buồn, sự thất vọng và cô đơn”. Câu này dạy ĐỨC ĐƯƠNG ĐẦU HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Người tu
hành theo Phật giáo đừng ngại đương đầu với mọi hoàn cảnh khó khăn. Có đương đầu
với các ác pháp mới thấy mình có xả tâm hay không? Có đương đầu với nghịch cảnh,
với chướng ngại pháp mới thấy mình có giữ gìn lòng yêu thương hay không? Gặp
chướng ngại pháp và ác pháp mà tâm vẫn thản nhiên và bình an thì đó là đức hiếu
sinh.
Đức hiếu
sinh dám đối diện đương đầu với bất cứ ác pháp nào, khi đức hiếu sinh có mặt là
các pháp sẽ bị tiêu diệt, cho nên đức hiếu sinh đến đâu là ác pháp tan biến đến
đó.
Đức hiếu
sinh có công năng diệt trừ các ác pháp rất lớn, đem lại sự bình an cho
chúng ta. Người tu hành theo Phật giáo là phải thấy được điều
này, khi thấy được điều này thì hằng ngày chúng ta thường xử dụng đức hiếu sinh
để đương đầu và dẹp trừ các ác pháp. Nếu quý vị lìa xa đức hiếu sinh thì thân
tâm quý vị sẽ bất an.
Trả lời
câu hỏi 34:
“Đôi khi
sự cô đơn thật sự sẽ giúp con hiểu và chiêm nghiệm được nhiều điều bổ ích, sâu
sắc”. Câu này dạy
ĐỨC ĐỘC CƯ HIẾU SINH Ý HÀNH.
Chỉ có đức độc
cư mới giúp cho chúng ta hiểu được chính mình, mới sống cho mình. Người có sống
cô đơn một mình mới gọi thương mình thật sự. Bởi vì có sống độc cư mới có thời
gian nhìn lại mình, nhìn lại mình mới xét thấy mình rõ ràng. Trong cuộc sống
này, ít ai lưu ý đến sự sống cô đơn một mình, họ thường sống chạy theo tâm bên
ngoài, sống theo sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Do đó tâm phóng dật
chạy theo lòng dục nên gây ra nhiều điều ác pháp, làm khổ mình, khổ người và khổ
tất cả chúng sinh.
Những người
hay nói chuyện, hay hội họp, sống tiếp giao bên ngoài là những người không sống
cho mình, là những người đang bị ngoại cảnh chi phối, đang bị lôi cuốn
trong tâm tham, sân, si, mạn, nghi.
Biết bao
nhiêu người về Tu Viện tu hành, nhưng chỉ có giới đức độc cư thế mà mọi người đều
vi phạm. Nghe tưởng chừng như không có vi phạm hạnh độc cư, nhưng sự thật là vi
phạm như vậy. Cho nên sống một mình rất khó chứ không phải dễ.
Bí quyết
thành công tu tập thiền định là đời sống độc cư, nhưng có ai sống độc cư được?
Vì sống độc cư là sống quay lại với chính mình, nhìn lại mình, hiểu chính mình.
Có người sống độc cư nhưng lại sợ cô đơn, nên xử dụng câu niệm hồng danh Phật
hay niệm ân đức của Phật, đó là lối ức chế tâm khiến cho tâm không khởi niệm.
Tâm không khởi niệm họ cho đó là thiền định: “Chẳng niệm thiện niệm ác
bản lai diện mục hiện tiền”. Họ đã lầm! Sống độc cư là sống để quán
xét tâm mình có sống với đức hiếu sinh hay không? Có tha thứ và thương mọi người,
mọi vật hay không? Có đủ lòng tin con đường mình đang tu theo hay không? Có can
đảm, gan dạ dám đương đầu với các ác pháp và các chướng ngại pháp hay không? Có
sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự được chưa?
Mục đích sống
độc cư là sống cho mình, sống trong tình thương yêu ban rải cho mọi người,
sống để xem từng tâm niệm của mình còn có bị những ác pháp chi phối hay không?
Vì thế sống
độc cư ít có ai biết cách thức sống như thế nào đúng, như thế nào sai. Người
nào sống đúng phương pháp độc cư là người đang tu tập thiền định của Phật giáo,
đang tu tập chánh định.
Trả lời
câu hỏi 35:
“Đừng đắm
chìm triền miên trong sự than trách yếu đuối”. Câu này dạy ĐỨC VƯỢT QUA HIẾU
SINH THÂN HÀNH.
Người tu
hành theo Phật giáo bất cứ gặp một ác pháp nào chúng ta đều phải vượt qua,
buông xuống, đừng để tâm triền miên trong đau khổ. Người để tâm trong sự triền
miên đau khổ là một người không trí tuệ, không sáng suốt. Trong đau khổ, phiền
não, giận hờn, thù oán, ghét cay, ghét đắng, v.v.. mà cứ để tâm trạng khổ đau
đó triền miên mãi là người vô minh, mê muội, dại khờ, không trí tuệ, không biết
thương mình, không biết thương người. Ai cũng biết nhờ có thương người mới xả bỏ
tâm ác, tâm đau khổ, nếu không xả bỏ mà cứ dằn vặt để cho mình khổ đau là người
điên khùng.
Đừng để chìm
đắm triền miên trong tâm tham, sân, si, mạn, nghi, có nghĩa là khi
tâm chúng ta đang tham muốn một điều gì thì chúng ta nên chấm dứt
lòng tham muốn đó ngay liền, đừng để tâm chìm đắm trong lòng tham muốn đó.
Ví dụ: Tâm
ham muốn có một chiếc xe hơi nên lúc nào thấy xe hơi là tìm xem đẹp xấu; tìm
xem giá cả bao nhiêu, mắc rẻ, đó là tâm tùy miên trong lòng tham muốn xe hơi.
Khi biết được tâm như vậy liền tác ý: “Tất cả các pháp trên thế gian
này đều vô thường, không có vật gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, đừng để
tâm chìm đắm ham mê, mà phải chấm dứt ngay liền”.
Ví dụ: Tâm
muốn mua vé số thì hãy dừng ngay liền bằng phương pháp tác ý: “Đây là
tâm THAM, hãy buông xuống ngay liền, đừng để tâm triền miên trong ham mua vé số,
vì mua vé số cũng là một hình thức bài bạc”.
Ví dụ: Tâm
khởi lên sân hận, tức giận, thì phải chấm dứt ngay liền bằng tri kiến quán sát
và tác ý: “SÂN là ác pháp, phải dừng ngay liền, đừng để tâm chìm đắm
triền miên trong sân hận tức giận, vì sân giận là pháp ác khổ đau”.
Ví dụ: “Tâm
hôn trầm, thùy miên thì phải chấm dứt ngay liền”, và bằng cách đi kinh
hành chánh niệm tĩnh giác.
Ví dụ: Tâm
khoe khoang tỏ ra mình hơn người thì biết đó là tâm MẠN. “Tâm mạn là một
ác pháp, phải dừng ngay liền”, bằng phương pháp như lý tác ý.
Ví dụ: Thấy
ai cũng nghi ngờ, sợ họ sẽ làm hại mình hay nói xấu mình, lúc nào tâm cũng chìm
đắm triền miên trong nghi ngờ lo sợ. Biết tâm NGHI NGỜ là ác pháp nên chấm dứt
ngay liền bằng phương pháp như lý tác ý; bằng phương pháp quán vô lậu thì ngay
đó liền xả bỏ tâm nghi.
Người tu
hành theo Phật giáo không nên để tâm chìm đắm triền miên trong các ác pháp, khi
các ác pháp vừa đến là diệt ngay liền bên ngoài, không để ác pháp lọt vào tâm.
Có tu tập như vậy mới thấy Phật pháp là cứu cánh, là đem lại sự an vui cho
mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Hành động làm được như vậy gọi là đức
hiếu sinh, tức là lòng thương mình, thương người.
Trả lời
câu hỏi 36:
“Con đừng
vội đi tìm một điều gì đó chưa chắc chắn thay thế”. Câu này dạy ĐỨC BỀN CHÍ HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Người tu
hành theo Phật giáo phải bền lòng vững chí, không được nay tu tập pháp môn này,
mai tu tập pháp môn kia; nay tu tập pháp môn niệm lục tự Di Đà
theo kinh phát triển đại thừa, mai tu tập pháp môn niệm 9 công đức của Phật
giáo theo nguyên thủy Nam tông; nay tu tập thiền tri vọng Thiền tông, mai tu tập
niệm chú bắt ấn Mật tông; nay tu tập thiền Minh Sát Tuệ Miến Điện, mai tu tập
thiền giữ tâm như mặt hồ tĩnh lặng của thiền sư Thái Lan A Chan Cha; nay tu tập
Tứ Niệm Xứ quán THỌ, mai tu tập Tứ Niệm Xứ quán TÂM, mốt tu tập Tứ Niệm Xứ quán
THÂN, v.v…
Tất cả
phương pháp tu hành trên đây quý vị có biết chắc là pháp môn của Phật không? Tất
cả pháp môn này chỉ có cái tên là của Phật giáo, còn nội dung tu tập không phải
của Phật giáo nữa. Tại sao vậy?
Vì các thầy
tổ tu hành mà không có người tu chứng hướng dẫn, nên theo kinh tự mò theo kiến
tưởng giải mà tu. Tu như vậy cũng giống như người mù rờ voi, rờ thấy giống cái
gì của con voi là cho con voi giống cái nấy. Bây giờ người tu theo Phật giáo
cũng vậy. Khi Phật dạy niệm Phật là “SỐNG” với những đức hạnh giới luật của Phật,
chứ không phải niệm danh hiệu Phật suông. Nhưng các tổ không hiểu biết nghĩa chữ
niệm là “SỐNG”, mà hiểu chữ niệm là ý thầm niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Gần
đây có một nhà sư Nam tông cũng không hiểu ý Phật dạy, nên vị
sư ấy lấy 9 công đức của Phật tiếng Pali đọc mỗi âm lần một hột chuỗi, biến
thành pháp môn niệm công đức Phật theo 108 hột chuỗi.
Nên Phật dạy
một đàng mà các tổ tu một nẻo. Tu như vậy chỉ có ức chế tâm không niệm khởi để
đi vào thế giới ảo tưởng, chứ có ích lợi gì cho ai đâu.
Bởi vậy họ
là những người mù rờ voi. Phật dạy con đường tu tập rất rõ ràng GIỚI, ĐỊNH, TUỆ.
Vậy mà họ niệm Phật kiểu đó thì giới luật ở đâu? Tu giới luật là tu chỗ nào?
Niệm Phật là
sống một đời sống đức hạnh như Phật, mà sống đức hạnh như Phật là sống giới luật.
Cho nên niệm Phật là sống đúng giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào,
chứ không phải niệm danh hiệu và công đức Phật như các sư thầy, tổ đã dạy. Các
sư thầy, tổ kiến giải pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh của Phật làm sai nghĩa lý lời
Phật dạy thì các sư thầy, tổ sẽ chịu tội với bao nhiêu người bỏ công sức ra tu
hành mà chẳng ích lợi gì, còn bị lạc vào ảo tưởng.
Câu này ý dạy
đừng nên thay đổi pháp tu, mà phải trì chí ôm giới luật đức hạnh tu tập. Chỉ có
giới luật là khởi sự cho bước đầu tu tập của Phật giáo, ngoài
giới luật đức hạnh ra mà tu pháp nào thì đều là tu sai pháp cả.
Pháp Tứ Niệm
Xứ là pháp tu giới luật đấy quý vị! Cho nên người nào nỗ lực thực hiện giới luật
nghiêm trì không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là phải 7 năm chứng đạo. Đối với
những người nghe hiểu biết giới luật mà chưa buông bỏ các pháp được, vì thế phải
trên Tứ Niệm Xứ giữ gìn thân tâm không phạm giới, dù là những giới nhỏ nhặt thì
trong 7 tháng chứng đạo. Còn người nào nghe xong liền buông bỏ sạch thì sáng
nghe pháp chiều chứng đạo, hoặc tối nghe pháp sáng chứng đạo.
Cho nên ở
đây chỉ cần hiểu các pháp là vô thường, là nhân quả, không có pháp nào là ta,
là của ta, là bản ngã của ta. Người nghe Phật thuyết pháp hiểu rõ thật như vậy,
sáng nghe thuyết pháp và quyết tâm buông xả sạch thì chiều chứng đạo; tối nghe
thuyết pháp và quyết tâm buông xả sạch thì sáng chứng đạo. Người nào hiểu giới
luật là pháp buông xả các ác pháp thì sự tu tập chứng đạo không phải khó khăn đối
với họ.
Ba mươi bảy
phẩm trợ đạo là 37 pháp môn dùng để tu tập giới luật, chứ nó không phải thiền định
gì cả.
Tứ Niệm Xứ
cũng là pháp tu giới luật, nhờ Tứ Niệm Xứ mà giới luật thanh tịnh.
Phật giáo chỉ
có GIỚI, ĐỊNH, TUỆ, nhưng khi tu GIỚI thành tựu thì có ĐỊNH, khi có định là có
TUỆ. Vậy ĐỊNH, TUỆ đâu cần tu. Trong BÁT CHÁNH ĐẠO, hết bảy lớp đều tu giới luật,
chỉ có một lớp tu tập ĐỊNH, như vậy ĐỊNH chỉ có thể thể hiện chứ có tu tập những
gì đâu.
Đoạn này người
mẹ khuyên con: “Con đừng vội đi tìm một điều gì đó chưa chắc chắn thay
thế sẽ tốt đẹp hơn”. Ngoài đời người ta làm nghề nghiệp để sống, thế mà khi
gặp thất bại người ta còn không thay nghề đổi nghiệp khác. Vì nghề nghiệp khác
chưa chắc mình chuyên môn hơn, thì tốt nhất ngay trong nghề cũ mình rút ra từng
kinh nghiệm thất bại mà sửa lại thì thành công tốt đẹp dễ dàng hơn.
Bởi vậy, chỉ
có đức bền chí mới làm nên mọi sự nghiệp. Bền chí mới thành công trong sự nghiệp
tu hành. Dù trên bước đường tu hành có gặp nhiều trở ngại khó khăn, nhưng chỉ
có bền chí sẽ vượt qua mọi khó khăn, mọi thử thách.
Trả lời
câu hỏi 37:
“Vì con vẫn
sẽ phải quay lại vấn đề chưa giải quyết được, đôi khi phức tạp
hơn hay với tâm thế không tốt như ban đầu”. Câu này dạy ĐỨC THẬN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH.
Bất cứ làm một
việc gì đều phải thận trọng, huống là việc tu tập rèn luyện nhân cách để ra khỏi
bốn sự khổ đau của kiếp người thì lại còn thận trọng nhiều hơn nữa. Có thận trọng
chúng ta mới tu hành đúng pháp. Xưa kia các sư thầy, tổ thiếu thận trọng suy
xét khi mình kiến tưởng giải ra pháp tu hành có đúng với lời Phật dạy hay
không? Thiếu thận trọng so sánh những kiến tưởng giải của mình về các pháp môn
niệm Phật, rồi đến các pháp môn thiền định. Vì thế tu sai Phật pháp mà không biết,
kết quả không giải thoát, nhưng để lại cho đời sau một giáo pháp sai lạc, một hậu
quả vô cùng khốc hại, biết bao nhiêu công sức của con người tu tập mà chẳng có
ích lợi gì, chỉ sống trong mộng ảo mà thôi.
Bởi vậy đức
thận trọng hiếu sinh ý hành rất cần thiết cho sự tu tập của chúng ta. Muốn thực
hiện cho được lòng yêu thương mình, thương người và tất cả loài vật khác, thì
phải thận trọng từng ý suy nghĩ, phải nghĩ những điều thiện, không nên suy nghĩ
những điều ác; từng lời nói không được nói đại, nói đùa, nói lời thô lỗ, nói tục
tĩu, nói lời kém văn hóa, nói lời không ái ngữ, nói lời thiếu
ôn tồn, nhã nhặn; từng hành động phải nhẹ nhàng, phải tỉnh thức, phải quan sát
kỹ lưỡng không để xảy ra vô tình làm đau khổ chúng sinh; không để xảy ra vô
tình làm mất danh dự mình; không để xảy ra vô tình làm mình khổ, người khác khổ
và chúng sinh khổ. Có làm được như vậy mới gọi là đức thận trọng hiếu sinh.
Đức thận trọng
hiếu sinh thân, khẩu, ý hành là đức hạnh rất quan trọng trong việc rèn luyện
nhân cách. Khi chúng ta muốn tu tập một pháp môn nào thì đức thận trọng là hàng
đầu. Các tu sinh phải nhớ lời dạy này.
Người có đức
thận trọng là làm việc gì bao giờ cũng dễ thành công hơn những người thiếu thận
trọng. Mọi người lái xe đều có đức thận trọng thì tai nạn giao thông không thể
xảy ra được; không thể xảy ra được thì sẽ không làm khổ mình, khổ người và khổ
tất cả chúng sinh.
Người tu
hành có đức thận trọng thì tu hành rất kỹ lưỡng, tu hành không sai. Nhờ tu hành
kỹ lưỡng không sai nên giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. Người
có đức thận trọng tu hành chứng đạo dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Bởi vì, người
nào tu theo Phật giáo chỉ biết áp dụng ĐỨC THẬN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH vào sự
tu tập của mình thì giới luật đều nghiêm chỉnh không hề sai phạm. Người tu hành
mà giới luật nghiêm chỉnh là chứng đạo ngay trước mắt.
Trả lời
câu hỏi 38:
“Con hãy
bắt tay vào công việc mà con yêu thích ngay cả lúc con chán nản nhất và không
muốn làm việc”. Câu
này dạy ĐỨC KIÊN NHẪN HIẾU SINH Ý HÀNH.
“Cố công
mài sắt có ngày nên kim”, đó là câu tục ngữ dân gian thường nhắc nhở mọi người cần phải có sự
kiên nhẫn, bền chí thì làm việc gì cũng thành công.
Ở đây là ĐỨC
KIÊN NHẪN HIẾU SINH Ý HÀNH, nếu ai đứng trước một công việc dù có khó khăn bao
nhiêu mà biết áp dụng đức hạnh này vào đời sống và việc làm thì thành công dễ
dàng, không có khó khăn mệt nhọc. Người tu hành cũng vậy, phải cố công hàng phục
tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Muốn dẹp sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi, thì
không phải việc chỉ làm trong một ngày mà phải nhiều ngày. Mà nhiều ngày thì phải
có đức kiên nhẫn.
Chúng ta ai
cũng biết tâm tham, sân, si, mạn, nghi trùng trùng, lớp lớp, chứ
không phải chỉ có một tâm tham là một tâm tham mà thôi, nó trùng trùng tâm tham
như: tham cái này cái nọ, rồi tham cái kia, v.v… Sắc pháp trùng trùng duyên khởi
thì tâm tham cũng theo đó mà trùng trùng chạy theo.
Nếu một người
tu tập không có đức kiên nhẫn thì không bao giờ dẹp hết tâm tham, sân, si, mạn,
nghi. Khi chúng ta ngồi lại một mình, quán xét nhìn lại trên bốn chỗ THÂN, THỌ,
TÂM, PHÁP của Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta mới thấy tâm tham, sân, si, mạn, nghi hoạt
động trên THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP trùng trùng điệp điệp, ý này khởi ra chưa hết liền
có ý khác, cho nên chúng ta muốn có một phút giây an ổn là một điều rất khó; muốn
có một phút giây tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì đâu phải dễ. Trên đường tu
hành để diệt trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi, nếu không có đức kiên nhẫn hiếu
sinh ý hành thì chúng ta khó mà chiến thắng nó được.
Đức kiên nhẫn
hiếu sinh ý hành giúp chúng ta rất lớn trong công việc đẩy lui các ác pháp. Khi
tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì đức kiên nhẫn phải được áp dụng ngay liền, vì
trong khi tu tập Tứ Niệm Xứ thì nên để tâm tự nhiên quán xét trên bốn chỗ thân,
thọ, tâm, pháp, chứ không được vận dụng tập trung ức chế vào một
đối tượng hay nhiều đối tượng để dẹp trừ vọng niệm khởi là tu sai pháp. Do để
tâm quan sát tự nhiên như người ngồi chơi vô sự thì mới thấy niệm tham, sân,
si, mạn, nghi khởi lên trùng trùng điệp điệp. Cho nên người tu tập chỉ có kiên
nhẫn ngày này qua ngày khác không chấp nhận, không làm theo tâm tham, sân, si,
mạn, nghi thì chúng tự dẹp, tự đi mất.
Khi chúng ta
kiên nhẫn tu tập như vậy là chúng ta đã diệt sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi.
Khi đã dẹp sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi là tu chứng đạo vô lậu (A La Hán).
Tu chứng quả
A La Hán đâu phải khó khăn, mệt nhọc, mà chỉ có kiên nhẫn không chấp nhận và
không làm theo tâm tham sân, si, mạn, nghi là thành công trên đường tu tập. Người
tu tập theo Phật giáo phải thấy ĐỨC KIÊN NHẪN HIẾU SINH Ý HÀNH là một pháp môn
cần thiết cho sự tu tập của mình.
Trả lời
câu hỏi 39:
“Vì chỉ
có công việc thật sự chứ không phải sự nhàn rỗi sẽ giúp con tìm lại được niềm
vui và niềm tin cuộc sống”. Câu này dạy ĐỨC CẦN MẪN HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người tu
hành lười biếng thì không làm sao chứng đạo được. Tu hành giờ
khắc phải nghiêm chỉnh.
Ví dụ: Sáng
7 giờ vào lớp học, khi về thất thì phải áp dụng bài học đức hiếu sinh vào đời sống
ngay liền: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, nói, nín đều sống với đức hiếu sinh.
Chiều 2 giờ tu tập phải áp dụng bài học đạo đức hiếu sinh buổi sáng đã học để
thực hành vào Định Niệm Hơi thở, vào Định Thư Giãn Sáng Suốt và vào Định Chánh
Niệm Tĩnh Giác đi kinh hành; tối 7 giờ và khuya 2 giờ đều tu tập như trên, chứ
không phải đến lớp học rồi về thất đi nói chuyện tào lao.
Mới 9 giờ tối
là đi ngủ đến 3, 4 giờ sáng mới dậy tu tập. Tu tập như vậy biết chừng nào chứng
đạo. Người học đạo đức hiếu sinh là phải biết áp dụng thực hành đạo đức vào đời
sống hằng phút, hằng giây, hằng ngày, đâu dám biếng trễ, chứ không phải học
suông như học trò học bài và làm bài xong là đi chơi.
Bởi vậy có
siêng năng tu tập áp dụng bài học đạo đức hiếu sinh khi về thất thì mới được gọi
là ĐỨC CẦN MẪN HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người đời có
siêng năng cần mẫn làm việc thì mới làm nên sự nghiệp vĩ đại, còn những người
lười biếng thì làm sao làm nên việc lớn được.
Trong đạo
cũng vậy, tuổi đời các tu sinh có người không còn bao lâu nữa, vậy mà còn thích
nói chuyện, còn thích ăn ngon, ăn uống phải có thực đơn như thế này, như thế
khác để lo phần sức khỏe, thì đó không phải là tâm giải thoát, mà đó là tâm đời,
tâm dục lạc thế gian.
Sức khỏe của
tu sinh đều do ảnh hưởng tinh thần trong sự tu tập, chứ ăn uống chỉ là một phần
nhỏ, không quan trọng như mọi người nghĩ.
Nếu tinh thần
ôm đầy ác pháp tham, sân, si, mạn, nghi thì dù có ăn ngủ đầy đủ thì không khác
nào như một người ngoài đời, đang nằm trong vòng luân hồi sinh tử của nhân quả.
Vì thế, người
tu hành đối với sự ăn uống không quan trọng, mà quan trọng ở việc áp dụng bài học
đạo đức hiếu sinh vào đời sống khi về thất. Bởi tu hành như vậy thì tu sinh đâu
còn giờ nào nữa rảnh rỗi mà lo ăn, lo ngủ hay vui chơi, hội họp nói chuyện.
Siêng năng cần
mẫn tu hành phải đúng cách, đúng pháp mới được gọi là ĐỨC CẦN MẪN HIẾU SINH Ý
HÀNH.
Trả lời
câu hỏi 40:
“Đừng quá
lệ thuộc vào những định ước khuôn mẫu như con đã từng biết: Mất tiền là không mất
gì; mất sức khỏe là mất nhiều; còn mất danh dự là mất tất cả”. Câu này dạy ĐỨC DANH DỰ HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Đạo đức đã dạy
chúng ta rất rõ ràng: “Mất tiền là không mất gì; mất sức khỏe là mất
nhiều; còn mất danh dự là mất tất cả”. Đó là đạo đức của người thế
gian mà họ còn quan tâm đến DANH DỰ như vậy, huống chúng ta là những tu sĩ Phật
giáo, thì danh dự của người tu sĩ rất quan trọng, vì danh dự của tu sĩ là danh
dự của Phật giáo, mà nói đến danh dự của Phật giáo là nói đến đức hạnh giới luật
của Phật giáo.
Một người tu
sĩ Phật giáo nói dối, người ta phát hiện ra người này nói không thật là người
tu sĩ đó tự làm mất danh dự của mình và của Phật giáo. Vì thế không nói thì
thôi, mà khi đã nói ra là phải nói đúng sự thật, đúng 100%. Lời nói rất quan trọng
như vậy, lời nói là một danh dự của con người cho nên muốn nói phải cân nhắc
suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới nói, chứ không được nói đại, nói tiểu. Danh dự có hay
không là do ở chỗ lời nói. Vậy các tu sinh khéo giữ gìn ĐỨC DANH DỰ HIẾU
SINH Ý HÀNH, thì giá trị của con người sẽ được mọi người quý trọng.
Khi mình
nghi ngờ một người nào mà không cân nhắc kỹ lưỡng, vội nói ra không đúng sự thật
là nói xấu người khác, coi chừng mình đã đánh mất danh dự của mình. Chứ mình đừng
nghĩ rằng nói xấu người khác là mọi người đều tin nghe theo mình cả. Cho nên
nói dối và nói xấu người khác là tự mình đánh mất giá trị danh dự của mình.
“Lời nói
không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Thường con người bị khẩu
nghiệp quá nặng, thường hay nói lời không thật hoặc hay nói xấu người khác để
thỏa mãn lòng căm tức, hay cơn giận hờn thù ghét mà đánh mất danh dự của mình.
Người làm mất
danh dự của mình là người không thương mình. Đạo đức hiếu sinh đã xác định rõ
điều ấy. Cho nên người nào tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi là người sẽ đánh mất
đức danh dự hiếu sinh của mình.
Trả lời
câu hỏi 41:
Nhưng với
ý chí, nhiều người đã chiêm nghiệm và thực hiện được trong thực tế cuộc sống
khác với câu châm ngôn ấy: “Mất tiền thì bạn sẽ có thể làm lại được ra tiền; mất
sức khỏe bạn có thể tìm lại được sức khỏe của mình; mất danh dự
bạn có thể khôi phục được danh dự, nếu còn có niềm tin và thời gian; mất niềm
tin bạn vẫn có thể tìm lại được niềm tin bằng sự cố gắng, nghị lực và tình cảm
con người”. Câu
này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.
Ngoài đời
cũng như trong đạo, nếu ai có đức tự tin thì sẽ làm thay đổi mọi sự việc, dù
cho gặp nhiều gian nan thử thách, nhưng lòng tin sẽ giúp chúng ta chuyển đổi được
tất cả, làm nên mọi sự việc, không chịu đầu hàng trước mọi nghịch cảnh.
Khi chúng ta
nghiên cứu kỹ lưỡng Phật pháp, biết chắc chắn rằng: những pháp này chính Phật dạy;
những pháp này tu tập sẽ làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh
luân hồi, nên quyết tâm, tự tin mình sẽ tu tập đến nơi đến chốn hoàn thành.
Người tu
hành theo Phật giáo dễ chứng đạo là do lòng tin. Khi nghe Phật thuyết pháp xong
là người có lòng tin chứng đạo ngay liền, đó đều là do lòng tin. Như trong kinh
Phật dạy: Sáng nghe thuyết pháp chiều chứng đạo, tối nghe thuyết pháp sáng chứng
đạo. Điều này nghe khó tin lắm, nhưng nó là một sự thật mà trong kinh thường nhắc
đi nhắc lại.
Ví dụ: Khi
nghe Phật dạy: “Các pháp là vô thường, là khổ, không có pháp nào là ta,
là của ta, là bản ngã của ta”. Nếu một người nghe pháp xong có lòng
tin thật sự vào lời dạy trên đây là họ xin Phật xuất gia ngay liền, họ không
còn luyến tiếc một chút gì trên đời này nữa, họ buông bỏ sạch như nhà cửa, sự
nghiệp, vợ con, cha mẹ, bà con quyến thuộc và chính ngay bản thân của họ, họ
cũng ném bỏ như ném bỏ một nắm rác bẩn thỉu. Thân tâm này là một khối duyên hợp,
là một khối nghiệp khổ đau, là một khối vật chất bất tịnh uế trược, càng ôm
mang nó, càng chiều chuộng nâng niu nó, thì nó càng khổ đau phiền não nhiều hơn
nữa. Cho nên người nào hiểu rõ như vậy thì phải mau mau buông xuống. Có buông
xuống sạch thì ngay đó là chứng đạo.
Xét qua người
thời nay, khi nghe một thời pháp nói về các pháp vô thường, khổ, vô ngã rất tuyệt
vời, không có ai phủ nhận, chống trái và bài bác được. Bài pháp ấy thật hay,
nhưng nhìn lại không có người nào buông xả; do không buông xả nên không có ai
chứng đạo ngay liền. Tuy họ nghe rất đúng, không có chỗ nào họ bảo sai được,
nhưng họ không đủ lòng tin nên không thể buông bỏ. Cho nên những người nào đi
tu mà còn lo bảo dưỡng sức khỏe, lo ăn uống cho có chất bổ dưỡng, là
họ chưa có lòng tin các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, là không phải ta,
là không phải của ta, là không phải bản ngã của ta.
Ai cũng bảo
rằng: tôi tin, nhưng sự thật lòng tin còn cạn cợt. Tin các pháp là vô thường,
khổ, vô ngã, nhưng khi bị người khác chửi hay nói nặng lời là mình tức giận ầm ầm
như vậy. Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, nhưng khi có tai nạn xảy đến
thì lo sợ, khổ đau phiền não. Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao còn
thích ăn ngon mặc đẹp? Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao còn thích đi
nói chuyện ham vui? Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao không thấy lỗi
mình mà cứ thấy lỗi người? Tin các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao lại
tranh chấp hơn thua, ganh tỵ từng lời nói, v.v…
Cho nên đức
tín lực hiếu sinh ý hành rất quan trọng trong vấn đề tu tập theo Phật giáo. Ai
cũng nói mình tin, nhưng lòng tin ấy chưa đủ, chưa có lực, nên buông xả các
pháp xuống chưa trọn vẹn.
Lời người mẹ
dạy con: “Mất tiền thì con sẽ có thể làm lại được ra tiền; mất sức khỏe
con có thể tìm lại được sức khỏe của mình; mất (280) danh dự con có
thể khôi phục được danh dự, nếu con có niềm tin và thời gian; mất niềm tin con
vẫn có thể tìm lại được niềm tin bằng sự cố gắng, nghị lực và tình cảm con người”. Nhờ
có lòng tin, chúng ta mới cố gắng hết mình vượt qua những khó khăn, gian nan và
thử thách. Nhờ có lòng tin, chúng ta mới có nghị lực kiên gan bền chí, dũng cảm
dời non lấp biển.
Nhưng lòng
tin mất, chúng ta có thể phục hồi lòng tin lại bằng sự tư duy quán xét, giúp
cho tri kiến thấy rõ các pháp vô thường, vô ngã và khổ đau như thật, hoặc chúng
ta hết sức công phu vào các pháp thực hành để có một sức tĩnh giác thấy rõ các
pháp vô thường, vô ngã là thật, thì lòng tin lại càng gia tăng. Cho nên người
tu sĩ Phật giáo đừng để đánh mất lòng tin. Mất lòng tin là mất tất cả; mất tất
cả thì cuộc đời này chỉ còn buông xuôi theo qui luật nhân quả, và như vậy chỉ
còn một sự đau khổ triền miên bất tận.
Đúng vậy, hiện
giờ loài người đang sống theo dòng sông định mệnh của nhân quả. Không có ai
chuyển biến làm thay đổi nhân quả, nên khổ đau lại càng khổ đau hơn, chỉ vì họ
chưa có lòng tin với chánh pháp của Phật.
Trả lời
câu hỏi 42:
“Và chỉ
khi bạn thôi không cố gắng nữa hay buông xuôi, bạn mới có khả năng mất tất cả”. Câu này dạy ĐỨC KHÔNG THỐI CHUYỂN
HIẾU SINH Ý HÀNH.
Còn cố gắng
tu tập là chưa mất tất cả, hãy cố gắng đứng lên chiến đấu tận cùng với mặt trận
sinh tử luân hồi. Nếu chúng ta thối chuyển, không tiến bước nỗ lực tu hành thì
không ai cứu khổ cho chúng ta được.
ĐỨC KHÔNG THỐI
CHUYỂN HIẾU SINH Ý HÀNH sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn gian khổ trong
bước đường tu tập, để chiến thắng giặc sinh tử luân hồi.
Xin quý tu
sinh hãy lưu ý: Trên đời này không có việc gì khó, cái khó là do ở chúng ta
không có tín lực. Người có đức tự tin thì không bao giờ thối chuyển bỏ cuộc, dù
bất cứ việc gì khó khăn và khó khăn đến bậc nào họ cũng vượt qua và hoàn thành
xuất sắc.
Bởi vậy, những
ai có ĐỨC KHÔNG THỐI CHUYỂN HIẾU SINH Ý HÀNH là có tín lực. Nếu không có tín lực
thì tâm thối chuyển sẽ hiện hành, và như vậy thì cuộc đời sẽ trôi nổi theo dòng
nhân quả và sự tu hành cũng chẳng tới đâu. Bằng chứng có một số người về Tu Viện
tu tập, nhưng thiếu lòng tin nên hiện giờ mục đích chứng đạo của
họ chẳng còn nữa, và con đường tu hành của họ cũng chẳng đi đến đâu cả, chỉ
lang bang nói những pháp chắp vá mình chưa làm được. Mang tiếng là tu sĩ, và
cũng một thời tu hành mà tu hành có ra gì?
Không nghe lời
dạy của thầy, nên phải chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi khổ đau vô cùng tận.
Cho nên làm người không đi tu thì thôi, mà đã đi tu thì phải tu tới nơi tới chốn,
quyết định thà chết chứ không lùi bước. Nhất là tu hành thì phải nghe lời dạy của
một vị thầy có kinh nghiệm đã trải qua và đã tu chứng đạo. Chọn được thầy như vậy
thì thầy dạy sao phải tu hành đúng như lời dạy của Người. Ví dụ: Thầy bảo sống
độc cư mà lại đi nói chuyện, thì như vậy là tu hành sai; tu hành như vậy không
đi đến đâu.
Thầy bảo đến
lớp học đức hạnh giới luật và về thất sống độc cư, áp dụng đức hạnh vào thân
tâm của mình để xả bỏ tâm tham, sân, si, mạn, nghi, nhưng ngược lại không đến lớp
học đạo đức, hoặc đến lớp học nhưng về thất lại đi nói chuyện, không áp dụng đạo
đức đã học ở lớp vào sự tu hành để xả tâm, thì như vậy là tu học sai.
Tu học là phải
nghe lời dạy của thầy, phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, có
tu tập như vậy mới tu tập đúng pháp, không được tu tập sai.
ĐỨC KHÔNG THỐI
CHUYỂN HIẾU SINH Ý HÀNH là một đức hạnh luôn chiến đấu không lùi bước, dù bất cứ
chúng ta gặp tất cả những hoàn cảnh khó khăn và gian nan, khổ đau đến mức nào,
cũng phải vượt qua để đạt cho được mục đích mà mình đã nhắm đến.
Trả lời
câu hỏi 43:
“Những
câu nói chưa suy nghĩ kỹ có thể bị hiểu nhầm, gây tổn thương người khác hay làm
con mất đi sự tự tin, nên hãy suy nghĩ, tìm hiểu kỹ về những điều, những dự định
sắp làm, những gì con sắp hứa, hay những điều con sẽ nói”. Câu này dạy ĐỨC CẨN THẬN HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Người tu sĩ
Phật giáo rất kỹ lưỡng khi bắt tay vào sự tu hành dù một pháp nào, một giới luật
nào nhỏ nhặt đến đâu họ đều cẩn thận suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới tu tập. Khi tu tập
họ cũng cẩn thận kỹ lưỡng tu tập từng hành động, khi hành động này tu tập xong
có kết quả thì họ mới tu tập hành động kế tiếp. Còn về tu tập hơi thở, khi tu tập
đề mục hơi thở này xong thì mới tu tập đề mục hơi thở khác, chứ không tu tập lấy
có, tu tập hình thức, tu tập rất kỹ lưỡng từng hơi thở một. Sự
tu tập kỹ lưỡng như vậy mới gọi là ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý
HÀNH. Người tu tập kỹ lưỡng là dễ chứng đạo.
Trong tu viện
chúng ta có rất nhiều tu sinh tu hành, nhưng tu hành không cẩn thận kỹ lưỡng.
Người tu hành không cẩn thận kỹ lưỡng nên thường vi phạm những giới luật nhỏ nhặt.
Ví dụ: Khi đứng
dậy bước đi mà không để ý quan sát trước sau đó là thiếu ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH
Ý HÀNH. Người thiếu đức cẩn thận hiếu sinh ý hành là phạm giới, là người thiếu
tĩnh giác. Người thiếu tĩnh giác là người không làm nên sự nghiệp lớn, tu hành
cũng chẳng đi đến đâu.
Ví dụ: Khi
muốn nói một điều gì mà nói đại, nói không có suy tư trước. Khi nói ra rồi lấy
lại rất khó. Lời nói không suy nghĩ dù người đó có tài trí đến đâu cũng không
làm nên sự nghiệp được. Muốn nói ra một điều gì mà nói không suy nghĩ là người
thiếu ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH. Người thiếu đức cẩn thận hiếu sinh ý hành
là người hay làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh.
Tóm lại, đức
cẩn thận hiếu sinh lúc nào cũng thực hiện nơi thân, khẩu, ý, để suy
nghĩ tư duy trước khi nói một việc gì; trước khi làm một việc
gì đều phải cẩn thận cân nhắc kỹ lưỡng rồi nói, rồi làm. Hành động cẩn thận cân
nhắc kỹ lưỡng như vậy là đức cẩn thận hiếu sinh thương mình, thương người và
thương yêu tất cả chúng sinh. Vì lợi ích cho mình, cho người và cho tất cả
chúng sinh, chúng ta quyết tâm giữ gìn ĐỨC CẨN THẬN HIẾU SINH Ý HÀNH, không để
đánh mất dù trong bất cứ những trường hợp nào.
Trả lời
câu hỏi 44:
“Đừng ngại
nói lời xin lỗi chân thành hay nhìn nhận những gì mình chưa làm được, chưa hoàn
thiện”. Câu này
dạy ĐỨC HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH.
Có làm lỗi
thì hãy đứng trước mọi người nói lời xin lỗi. Đó là hành động đạo đức tuyệt vời,
đó là thực hiện ĐỨC HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU HÀNH. Hành động đứng ra xin lỗi là đạo
đức thương mình, thương người; hành động đạo đức cao thượng làm cho mình an
vui, người khác cũng an vui.
Cho nên một
lời xin lỗi là một hành động đạo đức hiếu sinh khẩu hành; một sự hối hận trong
tâm của mình cũng là đạo đức hiếu sinh ý hành.
Trong các
pháp Yết Ma của Phật giáo có ngày BỐ TÁT. Ngày ấy tất cả chúng
tăng hội họp để phát lồ sám hối, nếu tu sĩ nào có làm điều sai phạm giới luật
thì phải đứng ra nói hết những lỗi lầm của mình và xin sám hối trước đại chúng.
Hành động ngày Bố Tát của tu sinh là hành động đạo đức HỐI LỖI HIẾU SINH KHẨU
HÀNH.
Hành động đứng
ra trước mọi người xin phát lồ sám hối là một hành động đạo đức hiếu sinh thân
hành và khẩu hành tuyệt vời trong Phật giáo; một hành động biết thương mình để
uốn nắn mình trở thành người tốt, người thiện, người không phạm giới, người
không làm khổ mình, khổ người rất rõ ràng và cụ thể. Hành động đứng ra trước mọi
người xin phát lồ sám hối còn là một hành động thương người để cho người khác
không còn buồn phiền mình vì mình đã làm chướng ngại cho họ.
ĐỨC HỐI LỖI
HIẾU SINH KHẨU HÀNH là một đức hạnh cao thượng tuyệt vời, mà mỗi con người
chúng ta đều phải học và thực hiện trong đời sống hằng ngày của mình, để rèn
luyện nhân cách của mình ngày một tốt đẹp hơn.
Trả lời
câu hỏi 45:
“Ngay cả
lúc thất vọng nhất, con hãy luôn nghĩ về những điều con từng ước
mơ, hãy mạnh dạn và hãy tự tin, trầm tĩnh, vững vàng”. Câu này dạy bốn ĐỨC MẠNH DẠN, TỰ
TIN, TRẦM TĨNH, VỮNG VÀNG.
Để thực hiện
con đường đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ
tất cả chúng sinh, thì chúng ta phải xử dụng bốn đức: ĐỨC MẠNH DẠN, ĐỨC TỰ TIN,
ĐỨC TRẦM TĨNH, ĐỨC VỮNG VÀNG. Ngoài đời khi gặp những lúc thất vọng nặng nề, nếu
chúng ta biết đem bốn đức này ra đương đầu với mọi việc khó khăn thì chúng ta
cũng dễ thành công.
Người tu sĩ
Phật giáo lúc nào cũng sống với ĐỨC TRẦM TĨNH trước các ác pháp, trước các cảm
thọ và trước những sự khiếp đảm và sợ hãi. Đức trầm tĩnh sẽ triệt tiêu tất cả
chướng ngại pháp. Nhờ ĐỨC TRẦM TĨNH, chúng ta mới có đủ trí tuệ sáng suốt mà diệt
trừ các ác pháp, cảm thọ và tâm khiếp đảm sợ hãi, thì mới đem lại sự bình an
cho mình, cho người, cho tất cả chúng sinh. Nếu không đủ ĐỨC TRẦM TĨNH thì
chúng ta khó mà diệt trừ được tâm tham, sân, si, mạn, nghi.
Nếu muốn một
tâm hồn có ĐỨC TRẦM TĨNH thì chúng ta phải có ĐỨC TỰ TIN. Tự tin nơi mình sẽ
làm được những gì người khác chưa làm được. Tự tin nơi mình sẽ
tu chứng quả A La Hán. ĐỨC TỰ TIN rất cần thiết cho đời sống tu hành của chúng
ta, nếu đánh mất ĐỨC TRẦM TĨNH và ĐỨC TỰ TIN thì con đường tu tập của chúng ta
cũng mất theo. Xin quý tu sinh lưu ý: Nó là một vật rất quý báu nhất cho người
tu hành theo Phật giáo.
Vừa rồi Tu
Viện mở khóa tu 7 tháng chứng quả A La Hán, nhưng hầu hết tu sinh đều không tự
tin mình tu hành trong 7 tháng chứng đạo. Do không tự tin mình tu chứng đạo nên
mọi tu sinh tụ họp với nhau nói chuyện phá hạnh độc cư. Do đó 7 tháng trôi qua,
mọi tu sinh không chứng đạo. Thật xấu hổ! Tất cả tu sinh đều thi rớt, chỉ còn vớt
vát lại hai người. “Thi không ăn ớt thế mà cay”. Nhưng nào có
ai cay đâu, tất cả tu sinh đều cho Phật pháp tu hành quá khó, nên đành xuống lớp
học lại giới luật đức hạnh. Nếu lớp học giới luật này không tự tin nơi mình, mà
không áp dụng đạo đức hiếu sinh vào sự sống hằng ngày thì sẽ ở lại lớp I mãi
mãi, không bao giờ lên lớp khác được. Và như vậy sẽ bỏ sự tu tập, và trở về đời
sống thế gian thì cuộc đời đau khổ lại toàn đau khổ. Đó là những tu sinh đánh mất
ĐỨC TRẦM TĨNH và ĐỨC TỰ TIN của mình.
ĐỨC TỰ TIN
không có thì làm sao có ĐỨC MẠNH DẠN được. Nếu không có ĐỨC MẠNH DẠN thì làm
sao có ĐỨC VỮNG VÀNG. Khi chúng ta đã hiểu các pháp là vô thường, là khổ, là vô
ngã, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thì chúng ta MẠNH DẠN
buông xả sạch, chỉ còn chấp nhận đời sống ba y, một bát đi xin ăn, lấy gốc cây
làm giường nằm, lấy nhà mồ nghĩa địa làm nhà ở; đời sống thiểu dục tri túc,
tinh thần trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không.
Người nào tu
theo Phật giáo mà MẠNH DẠN buông xả sạch đời sống thế gian, không còn một chút
tiếc rẻ nào thì người ấy đã chứng đạo. Bởi vậy đức MẠNH DẠN mà có sự hiểu biết
không vững vàng thì chỉ làm khổ cho mình mà thôi.
Người nào có
đầy đủ những đức như sau: ĐỨC MẠNH DẠN, ĐỨC TỰ TIN, ĐỨC TRẦM TĨNH, ĐỨC VỮNG
VÀNG, thì làm những việc gì cũng dễ thành công, tu hành thì cũng dễ chứng đạo.
Tu sinh tại tu viện Chơn Như thiếu bốn đức này nên phạm giới, phá giới, tu hành
không chứng đạo. Đến bây giờ tu sinh vẫn còn lang thang trong lớp học giới luật
đức hạnh, thế mà tu sinh lại không áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống, mà cứ
mãi chạy theo tâm tham, sân si, mạn nghi để hơn thua tranh chấp,
thật là đau lòng. Phải không các tu sinh?
“Cuộc đời
còn có gì đâu
Chẳng qua
một nắm cỏ khâu xanh rì”.
Ôn Như Hầu
Cuộc đời là
vô thường, như vậy có gì đâu mà không chịu buông bỏ xuống cho sạch, còn tham đắm
làm chi, hỡi các tu sinh!?
Trả lời
câu hỏi 46:
“Con hãy
làm theo cách, đi những con đường mà con đã suy nghĩ là đúng, dù có thể chưa ai
đi. Sự thử thách càng lớn, thì khi vượt qua được thế đứng và tầm nhìn càng
cao”. Câu này dạy
ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH.
Muốn làm một
điều gì, nói một điều gì chúng ta cần phải tư duy suy nghĩ kỹ càng rồi mới làm,
mới nói. Đó là Chánh Tư Duy. Người nào làm và nói có Chánh Tư Duy thì không bao
giờ gặp thất bại. Thường hay gặp thất bại là chỗ chúng ta không chịu suy tư kỹ
càng trước khi nói hay làm.
Sống trong đạo
cũng như ở đời, muốn có được sự an vui và hạnh phúc; muốn cho tâm mình bất động
trước các ác pháp và tất cả các cảm thọ; muốn cho tâm mình được thanh thản, an
vui thì phải sống trong giới luật đức hạnh của Phật giáo; muốn
sống trong giới luật đức hạnh thì phải dùng đức chánh tư duy.
Bởi muốn tu
chứng đạo hay muốn làm một việc lớn thành công đều phải bằng thiện pháp, tức là
sống trong giới luật đức hạnh; sống trong giới luật đức hạnh đều phải có sự tư
duy suy nghĩ chín chắn. Nếu không có sự tư duy suy nghĩ chín chắn thì việc làm
sẽ là một việc làm bất thiện, một việc làm đau khổ cho mình, cho người.
Chúng ta hãy
xem một người làm giàu có, có cơ sở sản nghiệp vĩ đại đều nhờ vào sự tư duy suy
nghĩ kỹ lưỡng trước khi bắt tay vào việc làm. Nhưng việc làm ác hay thiện đều
do chánh tư duy hay tà tư duy.
Lời dạy trên
đây là lời dạy ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH của người mẹ để giúp con mình
vượt qua những khó khăn, gian nan trong bất cứ mỗi lãnh vực nào trong cuộc đời.
Chúng ta là
những tu sĩ Phật giáo thì ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH rất cần thiết cho sự
tu tập của chúng ta. Nhờ nó tâm chúng ta mới vô lậu; nhờ nó chúng ta mới rèn
luyện đức hiếu sinh mọi hướng.
Muốn có được
đức Chánh Tư Duy thì phải học tập những gương hạnh trong Tam
Quy, 5 đức trong Ngũ Giới, 10 hạnh lành trong Thập Thiện, 8 oai nghi tế hạnh
trong Tám Giới. Đó là những đức hạnh cơ bản nhất mà người tu sĩ Phật giáo nào
cũng cần phải học tập và rèn luyện nhân cách của mình. Đức Chánh Tư Duy bao gồm
những đức hạnh đó, nên khi nó tư duy hay suy nghĩ một điều gì thì đều nằm trong
những đức hạnh đó.
Một người có
đầy đủ ĐỨC CHÁNH TƯ DUY HIẾU SINH Ý HÀNH thì phải thông suốt gương hạnh trong
Tam Quy, 5 đức trong Ngũ Giới, 10 hạnh lành trong Thập Thiện, 8 oai nghi tế hạnh
trong Tám Giới. Có thế thì tâm người ấy mới vô lậu hoàn toàn. Bởi vậy người tu
sĩ Phật giáo cần phải học tập và rèn luyện đức hạnh giới luật nhiều hơn nữa thì
mới mong chứng đạt chân lý.
Trả lời
câu hỏi 47:
“Đừng quá
tự dằn vặt hay nuối tiếc những gì đã qua, về những gì con đã làm”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC AN ỦI HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Trong cuộc đời
khi gặp phải một sự thất bại về công ăn việc làm, cũng như gặp phải những tai nạn
mất mát làm cho tâm hồn tan nát. Lúc bấy giờ, chúng ta đừng tự dằn vặt mình
trong tâm trạng khổ đau đó, mà hãy tự an ủi mình. An ủi mình để
tâm được bình tĩnh và sáng suốt nhìn mọi việc, mọi pháp thấy như thật vô thường,
khổ, vô ngã của nó. Ngày hôm nay nó như vầy, ngày mai nó sẽ khác, chứ không bao
giờ có pháp nào đứng yên một chỗ đâu, luôn luôn thay đổi liên tục. Vì thế, khi
thấy có lỗi hay làm sai một điều gì thì phải mau mau cố gắng sửa lại, hàn gắn lại,
làm cho cuộc sống ngày càng có đạo đức tốt đẹp hơn.
Người tu
hành theo Phật giáo chúng ta cần phải sống với đức tự an ủi mình để tâm mình vững
vàng, bình tĩnh trước những chướng ngại pháp, trước những nghịch cảnh, trước những
khó khăn, gian khổ.
Cứ mỗi lần
có việc gì khó khăn, đau buồn, khó giải quyết là chúng ta đã tự mình dằn vặt
mình, làm cho mình phải chịu thêm nhiều khổ đau hơn. Đó là một điều rất sai, rất
sai mà người ở đời thường hay vấp phải. Người có Chánh Tri Kiến bao giờ gặp chướng
ngại pháp họ đều buông xả liền, bằng những đức hạnh tự an ủi mình như trên
chúng ta đã học.
Biết các
pháp đều vô thường, khổ, vô ngã, không có pháp nào là thường hằng bất biến
không đổi thay, thì ngay đó là chúng ta thoát khổ, bởi chúng ta
buông xuống các ác pháp rất dễ dàng.
Đạo Phật có
một lối tư duy tuyệt vời, đó là tư duy trong đạo đức nhân bản - nhân quả, cho
nên không có pháp ác nào mà nó không buông xả được.
Đạo Phật có
một hàng rào chánh tư duy đức hiếu sinh, vì thế mỗi ác pháp đến với nó đều bị
hóa giải, chuyển thành thiện pháp ngay liền.
Từ những tâm
tham, sân, si, mạn, nghi, mà có chánh tư duy đức hiếu sinh xen vào thì những
tâm kia đều bị diệt trừ ngay tức khắc.
Chánh Tư Duy
là một pháp an ủi đệ nhất, nó giải trừ tất cả mọi sự khổ đau của con người thế
gian.
Trả lời
câu hỏi 48:
“Không vấp
ngã trong cuộc sống là một điều tốt, nhưng vấp ngã mà đứng dậy đi vững vàng thì
là một điều càng tốt hơn”. Câu này dạy ĐỨC SỬA LỖI HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người tu
hành càng gặp nhiều chướng ngại pháp mới biết được mình, mới sửa sai những lỗi
lầm. Chứ không phải mỗi lần gặp chướng ngại pháp, hoặc mỗi lần có làm sai điều
gì thì cứ tìm cách che đậy, đó là tự mình làm khổ lấy mình, tự mình dằn vặt lấy
mình mà không giải quyết được những gì, lại còn thêm làm mình
khổ đau.
Biết lỗi mà
sửa lỗi điều đó là một điều tốt đẹp, điều đó là một bước tiến trên đường đạo. Nếu
ngày ngày biết sửa những lỗi lầm của mình, đó là rèn luyện nhân cách để trên đường
đạo càng tiến gần trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả.
Biết sửa lỗi
là biết khắc phục tâm mình đi trong lãnh vực đạo đức làm người. Cho nên vấn đề
sửa lỗi rất quan trọng trong Phật giáo.
Biết sửa lỗi
là tự dẫn dắt mình từ phàm phu trở thành những bậc Thánh Hiền, cho nên trong đạo
Phật dạy: “THẤY LỖI MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI”. Thấy lỗi mình, mình mới có sửa đổi,
còn thấy lỗi người thì lấy đâu mà sửa lỗi mình. Người thấy lỗi
mình là người sống trong chánh tư duy, còn thấy lỗi người là
người sống trong tà tư duy. Người sống trong tà tư duy là người hay làm khổ
mình, khổ người và khổ cả hai. Người sống trong chánh tư duy là người đem lại sự
an vui cho mình, cho người và cho tất cả mọi sự sống trên hành tinh này.
Bởi vậy tà
tư duy rất tai hại, khiến cho mọi người đau khổ lại càng đau khổ hơn nữa. Câu
nói rất ngắn gọn nhưng ý nghĩa đạo đức nhân bản của nó rất đầy đủ: “THẤY LỖI
MÌNH ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI”, thật tuyệt vời.
Hỡi các tu
sinh trong tu viện Chơn Như! Chúng ta hãy sống như lời Phật dạy: “THẤY LỖI MÌNH
ĐỪNG THẤY LỖI NGƯỜI”, đó là một đức hạnh cao thượng tuyệt vời. Ngày ngày nên áp
dụng đức hạnh này vào đời sống để lúc nào chúng ta cũng có một niềm hoan hỷ, an
lạc và hạnh phúc vô cùng.
Tại sao người
ở đời lại thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi mình?
Tại vì họ
không thấy sự khổ đau, họ ôm đau khổ mà không biết mình khổ. Ví dụ: Mình nói
không thật mà mình không biết mình nói không thật thì điều đó vô lý. Nhưng biết lời
nói không thật là lời nói sai, là lời nói làm mất uy tín, vậy mà sao lại không
chịu sửa, không chấm dứt đừng nói nữa có phải đạo đức hơn không?
Cho nên biết
mình làm sai thì nên ngăn chặn liền, chứ không ngăn chặn, cứ để làm sai là một
người vô minh hết chỗ nói; là một người ngu si cứ để mình làm sai trái, làm mất
giá trị con người của mình. Hành động nói không thật là một hành động tệ hại
làm mất uy tín mình rất lớn, người ta tưởng mình nói không thật mà người khác
không biết hay sao? Nói ra là người ta biết ngay liền, nhưng người ta không nói
ngay trước mặt mình là vì lịch sự, chứ họ xem rẻ mình lắm, bất tín nhiệm lắm. Một
người nói không thật là một tai hại rất lớn cho đời sống của mình. Nói lời hung
dữ, dùng lời nói xấu người, nói lời thêu dệt, nói lời lật lọng, nói lời li gián
đều là những người không thấy lỗi mình.
Trả lời
câu hỏi 49:
“Cuộc đời
ai cũng có lần vấp ngã - sau mỗi lần vấp ngã, sai lầm, người ta sẽ có được kinh
nghiệm sống quý giá hơn”. Câu này dạy ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU SINH Ý HÀNH.
Cứ mỗi lần sửa
sai những lỗi lầm của mình là mỗi lần có kinh nghiệm. Những
kinh nghiệm như vậy được gọi là ĐỨC KINH NGHIỆM HIẾU SINH Ý HÀNH.
Người nào
luôn luôn biết sống với những kinh nghiệm đức hiếu sinh ý hành thì thân tâm họ
được an lạc và thanh thản, không có một ác pháp nào tác động vào thân tâm họ được.
Họ là người sống bất động tâm.
Mục đích của
đạo Phật là sống thanh thản, an lạc và vô sự, cho nên tất cả các ác pháp đến với
họ đều được chuyển đổi, hóa giải trở thành thiện pháp. Thân tâm họ thanh tịnh
và vô lậu hoàn toàn. Họ là người đang sống như mọi người, nhưng họ đang ở trong
Niết Bàn. Nói Niết Bàn là nói theo danh từ kinh sách, chứ thật sự họ là những
người phi thường, phi thường vì không còn tâm tham, sân, si, mạn, nghi như người
thế gian; phi thường vì tâm họ không còn lăng xăng tham đắm bất cứ một vật gì
trên thế gian này; phi thường vì tâm họ không còn ô nhiễm bởi những pháp dục
trên thế gian này; phi thường vì họ biết sống với lòng yêu thương rộng lớn như
trời biển đối với tất cả chúng sinh; phi thường vì tâm họ bất động trước các ác
pháp và các cảm thọ; phi thường vì tâm họ không phóng dật chạy theo sáu trần: sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp; phi thường vì mọi người còn thấy lỗi
người còn họ chỉ thấy lỗi mình; phi thường vì đời sống của họ trắng bạch như vỏ
ốc, phóng khoáng như hư không. Cho nên thấy họ tầm thường nhưng họ phi thường,
vì giới luật đức hạnh là họ và họ là giới luật đức hạnh.
Tất cả những
sự sống phi thường trên đây đều nhờ vào giới luật đức hạnh của Tam Quy, Ngũ Giới,
Thập Thiện, Bát Quan Trai Giới. Các tu sinh phải nhớ những điều này để thực hiện
một đời sống giới luật đức hạnh. Bởi vậy chỉ có giới luật đức hạnh mới tìm thấy
con đường giải thoát của Phật giáo. Các tu sinh đừng lầm giới luật đức hạnh là
giới luật đức hạnh, thiền định là thiền định. Không phải vậy đâu. GIỚI LUẬT LÀ
THIỀN ĐỊNH, thiền định được sinh ra từ trong giới luật đức hạnh.
Là một tu sĩ
Phật giáo, nghe đến giới luật đức hạnh của Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Bát
Quan Trai Giới, không có ai mà không biết, nhưng sống được với các giới cho
nghiêm túc là một việc làm không phải dễ dàng. Cho nên chúng ta hằng ngày phải
học tập cho thấm nhuần giới luật đức hạnh, và luôn luôn còn phải nhớ rèn luyện
nhân cách của mình bằng những giới luật đức hạnh này thì có ngày mới trở thành
con người thật là con người.
Con người khi
sinh ra đều mang bản chất của loài động vật, lớn lên nhờ học và sống trong giới
luật đạo đức thì mới thật sự là con người. Nhưng bản chất giới luật đức hạnh của
những con người này là bản chất đạo đức của NGŨ GIỚI, nên rất dễ nhận xét họ.
Còn với mọi người thế gian thì bản chất loài động vật vẫn còn sót lại không mất.
Chúng ta
cũng như mọi người, vì vậy chúng ta cố gắng tu học 5 đức hạnh của NGŨ GIỚI và
thường xuyên áp dụng vào đời sống hằng ngày. Do nỗ lực tu học như vậy, bản chất
của loài động vật sẽ buông xuống sạch.
Con người có
đầy đủ 5 giới luật đức hạnh này là con người Thánh Thiện; là những con người
đem lại cho loài người một sự bình an, yên vui và hạnh phúc, biến hành tinh này
thành hiện thực là một hành tinh đầy lòng yêu thương.
Cho nên Ngũ
Giới rất quan trọng cho kiếp sống của loài người, thế mà loài người xem thường
Ngũ Giới không chịu tu học, không chịu rèn luyện. Vì thế con người xa dần Ngũ
Giới: HIẾU SINH, LY THAM, CHUNG THỦY, THÀNH THẬT, MINH MẪN, và tiến dần đến với
các ác pháp tham, sân, si, mạn, nghi. Bỏ Ngũ Giới, con người càng chuốc thêm mọi
sự khổ đau, càng xa lìa bản chất con người và tiến gần bản chất
loài thú vật.
Nhờ có đức
Phật ra đời khai mở NGŨ GIỚI đức hạnh, làm thay đổi con người độc ác thành những
con người hiền lương nhân hậu tuyệt vời.
Được sinh
làm người được gặp chánh pháp của Phật đâu phải là một việc dễ? Thế mà có người
không biết trân trọng quý kính, lại xem thường giới luật đức hạnh chánh pháp của
Phật, nên đành lòng chịu một đời mang bản chất của loài động vật, thọ biết bao
nhiêu là sự khổ đau. Thật đáng thương thay!
Trả lời
câu hỏi 50:
“Không ai
đánh giá một giai đoạn vừa qua như một cách sống của con cả. Điều quan trọng là
cách con vượt qua; là cuộc sống sau này của con sẽ thế nào. Tất cả tùy thuộc
vào con”. Câu
này dạy ĐỨC TÙY THUỘC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Khi vào lớp
học đạo đức hiếu sinh thân, khẩu, ý hành, chúng ta nhận xét: Giới luật đạo đức
là một pháp môn xả tâm tuyệt vời, giúp chúng ta có đủ năng lực làm chủ sinh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Khi nhận xét đúng như vậy, nhưng khi
chúng ta muốn áp dụng thực hành giới luật đức hạnhhay bất cứ một
pháp môn nào thì đều TÙY THUỘC vào chúng ta cả. Nếu chúng ta không TỰ TIN mình
thì cũng khó mà đạt được mục đích. Cho nên ĐỨC TÙY THUỘC vào chúng ta để tu tập
giới luật đức hạnh rất quan trọng.
Học giới luật
đức hạnh thì dễ dàng, nhưng sống được với giới luật đức hạnh là một điều khó
như trên đã nói. Nếu chúng ta không biết lấy giới luật đức hạnh làm chỗ nương tựa
vững chắc cho mình, thì sự tu hành của chúng ta cũng khó thành công.
Cho nên một
người tu tập để tâm được vô lậu là phải tự tin nơi giới luật đức hạnh, lấy giới
luật đức hạnh làm hòn đảo; lấy giới luật đức hạnh làm chỗ nương tựa vững chắc
cho mình. Giới luật đức hạnh còn là mình còn, giới luật đức hạnh mất là mình mất.
Biết rõ như
vậy, thì ngay từ bây giờ chúng ta học giới đức hiếu sinh là áp dụng vào đời sống
hằng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, ăn uống, ngủ nghỉ; làm tất cả mọi
việc như đi khất thực, đi về thất, ngồi ăn cơm, uống nước hoặc ngồi chơi hay nằm
đều phải áp dụng giới đức hiếu sinh. Có tu hành được như vậy mới gọi lấy giới
luật đức hạnh làm hòn đảo, lấy giới luật đức hạnh làm chỗ nương tựa vững chắc
cho mình.
Một người tu
hành đúng như vậy thì sáng nghe pháp chiều đã chứng đạo; tối nghe pháp sáng đã
chứng đạo. Cho nên sự tu hành đều TÙY THUỘC vào chúng ta, có giải thoát hay
không giải thoát còn tùy thuộc vào chúng ta cả. Sự quyết tâm, tự tin nơi mình rất
quan trọng, làm được hay không làm được đều tùy thuộc vào chúng ta cả. Nếu
chúng ta biết áp dụng đúng phương pháp là chứng đạo ngay liền.
Những điều
tu tập trên đây các tu sinh có hiểu không? Có biết lớp học đạo đức NGŨ GIỚI là
lớp học đào tạo những người tu chứng quả VÔ LẬU không?
Hãy tự tin
mình là hòn đảo, là chỗ nương tựa vững chắc trên đường tu tập sẽ làm được như lời
dạy trên đây, sẽ đi đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn. Các tu sinh nên nhớ:
Giới luật đức hạnh là mạng sống của người tu sĩ, giới luật đức hạnh mất là mạng
sống người tu sĩ mất.
Trả lời
câu hỏi 51:
“Con vẫn
có thể nghe lời mẹ khuyên, học tập kinh nghiệm từ người khác, từ những câu chuyện
con biết được, từ trong sách vở, báo chí, bè bạn và người thân. Nhưng khi chính
con trải qua rồi, thì điều đó mới chính thực sự là của con”. Câu này dạy ĐỨC THỰC HIỆN
HIẾU SINH Ý HÀNH.
Dù chúng ta
có học cho nhiều giới luật đức hạnh, mà không áp dụng thực hành vào đời sống,
thì cái học giới luật đức hạnh đó chẳng có lợi ích gì cho chúng ta. Điều quan
trọng ở đây là phải biết áp dụng thực hành vào thân tâm như trên đã nói: Giới
luật đức hạnh là mạng sống của mình. Nếu giới luật còn là mạng sống còn, giới
luật mất là mạng sống mất. Hiểu biết giới luật đức hạnh quan trọng như vậy, nên
giới luật đức hạnh ở đâu là chúng ta ở đó; chúng ta ở đâu là giới luật đức hạnh
ở đó. Giới luật đức hạnh làm thanh tịnh chúng ta; chúng ta phải biết áp dụng thực
hành làm thanh tịnh giới luật đức hạnh. Giới luật đức hạnh là hình bóng của
chúng ta; chúng ta ở đâu là hình bóng chúng ta ở đó.
Bởi vậy sự
tu hành giới luật đức hạnh rất cần thiết, cho nên chúng ta cần phải học kỹ lưỡng,
đừng xem thường giới luật đức hạnh. Từ xưa đến nay, người tu sĩ phần đông coi
trọng thiền định và xem thường giới luật, cho nên tu mãi mà không ai chứng đạo
quả giải thoát A La Hán.
Xem thường
giới luật đức hạnh, nên người tu sĩ nào cũng phạm giới. Do tu
hành phạm giới thì làm sao thanh tịnh giới luật được? Mà giới luật không thanh
tịnh thì làm sao tâm ly dục, ly ác pháp được, vì vậy mọi người tu hành ngàn đời
muôn kiếp cũng chẳng đi đến đâu cả, thật là uổng phí một đời tu hành mà chẳng
ra gì? Thật đáng thương thay!
Như trên đã
nói, giới luật là mạng sống của tu sinh, nếu tu sinh lìa giới luật là lìa mạng
sống; lìa mạng sống là như chết chưa chôn. Các tu sinh có biết chưa?
Chỉ vì các
tu sinh không nghe lời dạy bảo của thầy, phá giới hạnh độc cư, khiến cho thầy
phải rời bỏ tu viện.
Bây giờ các
tu sinh học giới luật đức hạnh, chỉ ở trên giới luật đức hạnh lý thuyết suông
mà không chịu thực hành thì đừng trách thầy đóng cửa và giải thể các lớp học.
Thầy sẽ vào Niết Bàn, chứ ở lại đây có làm ích lợi gì cho ai đâu! Các tu sinh
nên nhớ: Giới luật của các tu sinh mất là các tu sinh sẽ mất thầy. Thầy sẽ từ
giã các tu sinh đi vào cõi vĩnh hằng.
Trả lời
câu hỏi 52:
“Có khi
thử thách nghiệt ngã và khó khăn như một điều may mắn, vì người ta lớn lên, trưởng
thành thực sự chính bằng kinh nghiệm và nghị lực đối đầu với khó
khăn. Chứ không ai trưởng thành lên chỉ bằng lý thuyết hay kinh
nghiệm của người khác”. Câu này dạy ĐỨC NGHỊ LỰC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Chỉ có giới
luật đức hạnh mới chuyển đổi được nhân quả thiện ác, nhưng nếu đứng trước nhân
quả nghiệp báo quá nặng nề, mà chúng ta không có kinh nghiệm trong giới luật đức
hạnh, thì cũng khó khăn cho chúng ta giữ gìn giới luật và đức hạnh nghiêm túc
trọn vẹn. Muốn giữ gìn giới luật nghiêm túc và đức hạnh trọn vẹn, thì chúng ta
phải có đầy đủ nghị lực.
Ví dụ: Muốn
từ bỏ giết hại và ăn thịt chúng sinh, để thể hiện đức hiếu sinh chuyển đổi những
nghiệp quả khổ đau, gia đình bất an, v.v.. mà không có nghị lực thì không thể
nào ăn chay được. Ăn chay không được thì làm sao chuyển đổi nhân quả nghiệp báo
ác độc được.
Khi chúng ta
quyết định ăn chay, không giết hại và ăn thịt chúng sinh nữa, thì nghiệp quả ác
không để chúng ta yên ổn. Cho nên khi ăn chay thì nghiệp ác đổ ra ngăn cản khiến
cho thân bệnh đau, tai nạn xảy ra, rồi đến gia đình vợ con, cha mẹ, anh em, chị
em cản ngăn, khóc than bàn ra, nói vào không cho chúng ta ăn chay. Khi chúng ta
về sống với thiện pháp ăn chay thì trường hợp này thường xảy
ra. Nếu ai không có nghị lực, không gan dạ trong lúc này thì không thể nào ăn
chay được. Người quyết sống trong đạo đức hiếu sinh, nhất định thà chết không
ai cản ngăn được, và bệnh đau chết bỏ chứ không chấp nhận ăn thịt chúng sinh nữa.
Người như vậy mới là người có đức nghị lực hiếu sinh thân hành.
Ví dụ: Khi
ăn chay được rồi, bây giờ tiếp tục ăn ngày một bữa thì chúng ta còn gặp biết
bao nhiêu trở ngại như: Cơ thể sụt cân, gầy ốm rồi bệnh đau, rồi người thân và
bác sĩ cản ngăn.
Tất cả mọi sự
trở ngại xảy ra khiến chúng ta khó thực hiện sống giới luật đức hạnh ăn ngày một
bữa được. Nếu chúng ta không gan dạ, không nghị lực kiên quyết thì chúng ta
không bao giờ thực hiện được giới luật đức hạnh. Cho nên người tu hành phải biết
rút ra từ những kinh nghiệm bản thân của mình, rồi áp dụng đạo đức hiếu sinh
trong cuộc sống hằng ngày một cách có ý chí, có quyết tâm và đầy đủ nghị lực
thì mới mong sống một đời sống giới luật đức hạnh của Phật.
Một người tu
hành Phật giáo phải có nghị lực để vượt qua những lúc khó khăn, những ác
pháp cản trở. Nếu thiếu nghị lực, khi gặp khó khăn thì liền chùn bước ngay, liền
đầu hàng ác pháp. Vậy muốn có nghị lực thì chúng ta phải làm sao?
Muốn có nghị
lực, thì chúng ta nên tập luyện pháp môn CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC: ĐI MƯỜI BƯỚC NGỒI
XUỐNG KIẾT GIÀ HAY BÁN GIÀ, HÍT THỞ NĂM HƠI THỞ RỒI ĐỨNG LÊN TIẾP TỤC ĐI KINH
HÀNH MƯỜI BƯỚC NỮA, VÀ CỨ NHƯ THẾ TIẾP TỤC TU TẬP TỪ 30’ ĐẾN 1 GIỜ.
Người nào chịu
khó tu tập như trên đã dạy là sẽ có đầy đủ nghị lực. Vì sự đứng lên ngồi xuống
làm cho người tu hành rất cực nhọc, mà khi vượt qua những sự cực nhọc khó khăn
đó là người ta phải có nghị lực, phải bền chí, phải kiên gan, phải nhẫn nại,
v.v…
Bởi sống
đúng giới luật đạo đức không phải là một việc dễ làm, bằng chứng tại Tu Viện chỉ
có sáu giới đức: ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Vậy mà tất cả
tu sinh không đủ nghị lực, không kiên gan, bền chí sống với những đức hạnh này,
hầu hết người nào cũng vi phạm. Xem thế mới biết nghị lực của họ không có. Nghị
lực không có thì con đường tu tập rất khó chứng đạo.
Trả lời
câu hỏi 53:
“Trong bất
kỳ thời điểm nào, con hãy trân trọng với những gì đang có, và hãy cảm nhận mọi
khía cạnh của cuộc sống”. Câu này dạy ĐỨC TRÂN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH.
Mỗi pháp tu
hành của Phật chúng ta đều phải trân trọng, xem như là vật quý báu nhất trên đời
của chúng ta thì sự tu hành của chúng ta mới cẩn thận, kỹ lưỡng; thì kết quả mới
thành công mỹ mãn.
Bởi vậy, ĐỨC
TRÂN TRỌNG HIẾU SINH Ý HÀNH rất cần thiết cho sự tu tập của chúng ta.
Ví dụ: Hôm
nay chúng ta học giới đức hiếu sinh ý hành, do đó chúng ta phải biết trân trọng
mỗi sự suy nghĩ của mình, vì mỗi sự suy nghĩ đều mang đầy đủ tính đạo đức nhân
bản, tức là chánh tư duy; còn nếu chúng ta không trân trọng sự suy nghĩ của
mình thì chúng ta sẽ suy nghĩ trong tà tư duy. Suy nghĩ trong tà tư duy là đánh
mất đức hiếu sinh ý hành.
Người tu
hành phải biết trân trọng sự tư duy suy nghĩ ý hành, nhờ đó nó sẽ giúp chúng ta
suy tư một cách chín chắn, suy tư một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Chính nhờ đó
chúng ta mới thực hiện đức hiếu sinh trong tất cả mọi hướng, mọi
pháp.
Trên đây là
sự trân trọng đối với pháp môn tu hành, còn trân trọng đối với mọi người thì
sao?
Để thực hiện
đức hiếu sinh đối với mọi người thì chúng ta đều phải có sự trân trọng. Nếu sự
trân trọng đối với mọi người không có thì lòng yêu thương chỉ là lòng yêu
thương một hướng, chứ không có lòng yêu thương nhiều hướng. Cho nên đức hiếu
sinh lúc nào cũng đi kèm theo đức trân trọng, có đức trân trọng thì có đức hiếu
sinh.
Chúng ta là
những người học đức hạnh hiếu sinh thì lúc nào cũng phải xử dụng đức trân trọng,
cung kính với những người khác bằng ý hành, thân hành và khẩu hành.
Một người chửi
mắng mình, nói xấu, mạ nhục mình, mình cũng nên trân trọng cung kính người ấy.
Tại sao vậy?
Tất cả những
lời nói ác kia, đều là những lời nhắc nhở chúng ta phải trân trọng răn nhắc
mình đừng để chúng ta sai phạm theo những lời nói ác đó. Và chúng ta cũng cần tự
răn mình đừng nói những lời ác như vậy, vì lời nói như vậy không xứng đáng là
người học đạo đức; nói những lời ác như vậy sẽ làm khổ mình, khổ người. Người học
đạo đức cần nên tránh nói những lời ác đó, vì những lời ác đó sẽ
làm khổ thân mình; vì mình trở nên người hung dữ, người không thiện, người thiếu
đức hạnh hiếu sinh.
Người tu học
đạo đức hiếu sinh bao giờ cũng trân trọng quý kính tất cả mọi người, dù người
hung ác hay người thiện. Người hung ác sẽ cho chúng ta một bài học hung ác, người
hiền lương sẽ cho ta một bài học đạo đức hiếu sinh. Bài học hung ác cũng như
bài học đạo đức hiếu sinh đều giúp chúng ta trên con đường tu tập đến chỗ giải
thoát hoàn toàn. Bài học hung ác giúp chúng ta sống không làm theo, và ngăn chặn
diệt trừ các ác pháp đó không cho xâm chiếm vào tâm; còn bài học đạo đức hiếu
sinh thì chúng ta làm theo và thực hiện sống trong cuộc sống hằng ngày như hình
với bóng.
Cho nên dù
ác pháp hay thiện pháp, người tu học đạo đức hiếu sinh đều trân trọng quý kính,
nhưng sáng suốt biết cần theo pháp nào hay không theo mà còn ngăn và diệt. Nhờ
thế đối với người ác chúng ta không giận hờn, mặc dù họ chửi mắng, nói xấu, nặng
lời, mạt sát, mạ lị, vu oan chúng ta, nhưng chúng ta vẫn thấy thương họ và
thương họ nhiều hơn, vì họ là những người ân nhân giúp chúng ta vượt ra khỏi những
ác pháp và cũng không bị sai phạm theo những pháp ác đó.
Trả lời
câu hỏi 54:
“Con đừng
quy kết cho số phận, mà hãy cố hết sức mình”. Câu này dạy ĐỨC GẮNG SỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Trong cuộc đời
này không có số phận, số mệnh, mà chỉ có nhân quả thiện ác, nhưng nhân quả thiện
ác sẽ chuyển đổi được. Muốn chuyển đổi nhân quả phải ngăn chặn và diệt trừ ác
pháp, luôn luôn lúc nào cũng tăng trưởng những thiện pháp, tức là chúng ta phải
sống đúng giới luật đạo đức. Sống đúng giới luật đạo đức là sống với đức hiếu
sinh; sống với đức hiếu sinh là sống bằng những hành động thiện lành đối với
muôn loài muôn vật, bằng những hành động thương yêu và tha thứ đối với mọi người,
không phân biệt thân sơ.
Muốn được vậy
thì phải cố gắng sống trong thiện pháp, không nên lìa thiện pháp. Cho nên số phận
hay số mệnh là do những người tiêu cực khi đứng trước các pháp ác, gặp việc
gian nan, khó khăn không dám đương đầu, mới đặt ra số phận, số mệnh để tránh
né, trốn chạy hay che dấu những hành động hèn kém, nhút nhát của mình.
Người tu sĩ
Phật giáo không bao giờ tin có số phận hay số mệnh, mà tin
có nhân quả và tin rằng mình sẽ làm thay đổi nhân quả. Do đó,
nhờ sự hiểu biết cương quyết này, người tu sĩ Phật giáo làm thay đổi thế giới
này một cách dễ dàng?
Người tu sĩ
Phật giáo biết rất rõ các pháp trên thế gian này có mặt là do duyên hợp theo
qui luật nhân quả mà sinh ra, và cũng do qui luật nhân quả duyên tan mà diệt mất.
Sinh diệt, tan hợp là những hiện tượng vô thường thay đổi của các pháp, của vạn
vật. Vậy mà bảo rằng có số phận và số mệnh thì làm sao đúng được, phải không
quý tu sinh? Vì thế tất cả những sự bói khoa, chiêm tinh, dịch số không thể
đoán đúng được, nó là những tư tưởng tiêu cực, mê tín xa lìa thực tế, xa lìa
nhân quả.
Biết được
các pháp vô thường hay thay đổi từng sát na liên tục, nên chúng ta có thể làm
thay đổi cả vụ trụ thế gian này. Dù mưa không thuận, gió không hòa, thiên tai,
lũ lụt, hạn hán, bão tố, sóng thần, động đất, v.v… Mà muốn cho mưa thuận, gió
hòa; muốn thiên tai, lũ lụt, hạn hán, bão tố, sóng thần, động đất, v.v.. chấm dứt,
và đem lại sự bình an cho hành tinh này thì chúng ta dựa vào qui luật nhân quả
hành thiện là sẽ chuyển đổi được những nhân quả nghiệp báo xấu
ác, khổ đau. Nhờ đó chúng ta mới đem lại sự bình an, yên vui, hạnh
phúc cho sự sống trên hành tinh này.
Những hành động
thiện lành là giới luật đức hạnh. Giới luật đức hạnh là một sự sống làm thay đổi
thế giới và vũ trụ, nhưng nó là một sự sống đi ngược lại với những gì mà con
người đang sống. Con người đang sống là đang chạy theo dục lạc thế gian, nên
làm tất cả mọi điều ác, thường làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sinh. Cho nên muốn sống đúng giới luật đức hạnh là một việc khó làm. Nói khó là
nói theo nghiệp lực của mọi người đã từng sống và tạo thành những thói quen độc
ác như: huân tập hằng ngày giết hại và ăn thịt chúng sinh; huân tập lòng ái dục,
cái gì cũng muốn cho riêng mình; huân tập tâm tham, sân, si, mạn, nghi, nên đời
sống luôn luôn giận hờn, phiền não, tham ăn, tham uống, nghi ngờ chuyện này,
chuyện khác; nghi ngờ người này người khác; kiêu căng ngã mạn cống cao, cho
mình là trên hết. Do những hành động tham, sân, si, mạn, nghi mà con người tạo
ra vô vàn biết bao tội ác làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sinh.
Trả lời
câu hỏi 55 và 56:
“Con chớ
quên tình cảm luôn là nguồn động viên lớn nhất. Con đừng quên những điều bình dị,
những nơi chốn thân thương từng gắn bó với tuổi thơ của mình, những kỷ niệm đẹp,
cả những người bạn mà không còn gặp lại”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Trong cuộc đời
này, muốn vượt qua tất cả mọi sự khó khăn, mọi sự gian nan thử thách thì chỉ có
tình yêu thương. Tình yêu thương đến đâu thì tất cả mọi ác pháp và mọi sự đau
khổ đều tan biến, như ánh sáng mặt trời soi rọi đến đâu thì bóng đêm sẽ tan biến
đến đó.
Điều khó nhất
là chúng ta phải làm sao giữ gìn trọn vẹn lòng yêu thương với mình, với mọi người
và với tất cả chúng sinh. Mọi người nói đến đức hiếu sinh thì ai nói cũng được,
nhưng khi sống với nó thì sao mọi người thấy khó vô cùng.
Thấy đức hiếu
sinh khó là vì chúng ta chưa hiểu đức hiếu sinh. Các tu sinh có thấy nó khó
không? Thấy nó khó là các tu sinh chưa hiểu nó cho rõ ràng. Chứ hiểu nó không
khó đâu, chúng tôi sẽ cho một vài ví dụ thì tất cả mọi người sẽ hiểu dễ dàng.
Ví dụ: Thấy
một cành hoa mai nở vàng trông rất đẹp, muốn có cành mai đó để
làm đẹp phòng khách, nhưng khi cầm nhành mai không nỡ tâm bẻ nó, nên ngắm nghía
cành hoa mai một lúc rồi ra về. Hành động không nỡ bẻ cành mai là đức hiếu
sinh, như vậy đức hiếu sinh đâu gì khó hiểu. Phải không quý vị?
Ví dụ: Từng
mỗi bước đi quý vị đều chú ý kỹ lưỡng tránh không giậm đạp lên những chúng sinh
ở dưới chân, đó là đức hiếu sinh thân hành. Như vậy có khó hiểu không?
Ví dụ: “Thưa
Thầy! Thiện Quang xin sám hối những lỗi lầm phá hạnh độc cư, từ nay về sau Thiện
Quang sẽ quyết không làm lỗi đó nữa”, đó là đức hiếu sinh khẩu hành,
các tu sinh thấy có khó không? Chỉ một lời xin lỗi là thực hiện được đức hiếu
sinh rồi, có gì khó hiểu đâu?
Ví dụ: Hôm
nay sao lại nhức đầu và chóng mặt, Minh Thiện tác ý: “Thọ là vô thường,
lúc nãy không đau bây giờ đau, bây giờ đau thì một lúc nữa sẽ không đau. Minh
Thiện sẽ tréo chân lên ngồi kiết già, lưng thẳng, nhiếp tâm vào hơi thở ra, vô,
và cho tất cả cảm thọ sẽ bị diệt ngay”. Tác ý và ngồi kiết già nhiếp
tâm trong hơi thở, đó là đức hiếu sinh khẩu hành và thân hành.
Ví dụ: Người
ta chửi mình mà mình không giận, không buồn mà còn khởi lòng thương yêu người
chửi mình thì đó là đức hiếu sinh ý hành. Như vậy sống đạo đức đâu có khó khăn
gì, phải không các tu sinh?
Người ta nói
xấu mình với người khác, người khác nói lại cho mình nghe, nhưng mình không giận
không ghét, mà còn tìm mọi cách giúp đỡ và có vật gì đều ban cho họ bằng một
tình thương yêu chân thật. Như vậy đức hiếu sinh đâu có gì khó hiểu đâu.
Cho nên mỗi
thân hành, khẩu hành và ý hành không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả
chúng sinh, đó là tình thương yêu đang sống trong lòng chúng ta và đang sống
trong lòng mọi người. Cho nên thương yêu bằng hành động là lòng thương yêu chân
thật.
Tình cảm bi
lụy khóc than là một thứ tình cảm làm khổ mình, khổ người và làm khổ cả hai. Đó
là thứ tình cảm thuộc tà tri kiến, loại tình cảm này phải chấm dứt ngay liền,
phải triệt tiêu chúng. Còn có một loại tình cảm bằng chánh tri kiến, đó là thứ
tình cảm bắt nguồn từ lòng yêu thương chân thật, từ lòng tha thứ, từ sự hối hận
những điều làm ác của mình.
Chúng ta là
những tu sĩ Phật giáo, hãy cố gắng sống đúng đức hiếu sinh
trong cuộc sống hằng ngày thì con đường tu tập của Phật giáo sẽ tìm thấy sự giải
thoát ngay. Chỉ có đức hiếu sinh mà ai sống trọn vẹn thì chứng đạo ngay liền,
đâu cần phải tu tập pháp môn gì nữa cả.
Đức hiếu
sinh này là mình và mình là đức hiếu sinh thì người tu hành đã chứng quả vô lậu
A La Hán rồi. Chứng đạo đến đây thì có đủ Tứ Thần Túc làm chủ bốn sự khổ đau và
chấm dứt sinh tử luân hồi, đó là sự giải thoát ngay liền.
Muốn được
như vậy thì ngay từ bây giờ các tu sinh hãy áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống,
từ sự tiếp giao với mọi người; từ sự đi đứng, nằm, ngồi, ăn, ngủ, nói, nín, đều
thể hiện đức hiếu sinh, không được lơi lỏng. Phải luôn luôn nhớ kỹ từng hành động
thân, miệng, ý mà thực hiện đức hiếu sinh.
Có áp dụng đức
hiếu sinh được như vậy thì mới thấm nhuần, mới thành một thói quen; có như vậy
đức hiếu sinh là mình và mình là đức hiếu sinh. Nếu không áp dụng vào đời sống
hằng ngày thì học đạo đức chỉ là học đạo đức hiếu sinh lý thuyết suông mà thôi.
Cho nên đức hiếu sinh là mình và mình là đức hiếu sinh thì phải thực hành từng
phút, từng giây không được biếng trễ, không được bỏ lãng phí những
phút giây nào cả.
Trả lời
câu hỏi 57:
“Những
câu chuyện từng làm con xúc động sâu sắc. Tất cả những điều đó tưởng chừng sẽ
làm đau con hơn, nhưng chính những điều đó sẽ giúp con vượt qua khó khăn bằng
đôi chân và tâm hồn của chính mình”. Câu này dạy TÍNH XÚC ĐỘNG HIẾU SINH Ý HÀNH.
Những bài học
trong giáo án đã từng làm tu sinh xúc động, chính những bài học đó đã gây một
xúc động sâu sắc, đánh thức lòng thương yêu của chúng ta, khiến cho chúng ta
khó quên, nhờ đó không thực hành đức hiếu sinh mà đã thực hành đức hiếu sinh;
nhờ đó tự nó thấm nhuần vào tận tâm hồn của chúng ta và biến ra hành động hiếu
sinh phản ứng một cách tự nhiên.
Cho nên những
câu chuyện đạo đức từng làm xúc động tâm mọi người là những bài học đạo đức tuyệt
vời.
Khi biên soạn
giáo trình hay giáo án thì cũng nên chọn đề tài phải thực tế, thường xảy ra
trong cuộc sống hằng ngày của mọi người, bài học phải sống động gây cảm xúc cho
mọi người để nêu cao đức hiếu sinh. Có như vậy đạo đức mới đi
sâu vào lòng người.
Chúng ta hãy
đọc lại lời người mẹ khuyên con thật là thấm thía: “Những câu chuyện từng
làm con xúc động sâu sắc. Tất cả những điều đó tưởng chừng sẽ làm đau con hơn,
nhưng chính những điều đó sẽ giúp con vượt qua khó khăn bằng đôi chân và tâm hồn
của chính mình”. Đúng vậy, những câu chuyện đạo đức gây xúc động vào
lòng người mới là những bài học đạo đức có giá trị. Những bài học giản dị nhưng
nó giúp cho chúng ta vượt qua bao nhiêu chướng ngại của ác pháp, nó giúp cho
chúng ta thấm nhuần những hành động thương mình, thương người, nhờ đó để xả bỏ
những ác pháp như: tham, sân, si, mạn, nghi.
Bởi vậy chỉ
có lòng yêu thương mới ly dục, ly ác pháp hoàn toàn; mới đưa chúng ta đến bờ
giác ngộ nhanh chóng.
Trả lời
câu hỏi 58:
“Nên học
hỏi từ người khác, nhưng đừng lấy người khác làm thước đo giá trị của mình. Vì
con luôn phải là con với tất cả những điều cần hoàn thiện, những điều bình dị
và thật riêng của mình”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.
Tuy những
bài học đạo đức rất hay, nhưng chúng ta không biết áp dụng vào
đời sống hằng ngày của mình thì những bài học đạo đức kia trở thành một bài học
suông không có giá trị đối với bản thân của mình. Cho nên sự áp dụng đạo đức
vào bản thân của mình là một điều rất cần thiết, chính vì biết áp dụng vào bản
thân nên nó làm thay đổi chúng ta từ một con người phàm phu bình thường; nó sẽ
giúp chúng ta trở thành những con người phi thường, những bậc thánh nhân.
Học đạo đức
hiếu sinh là chỗ biết ứng dụng vào từng hành động sống hằng ngày, mỗi mỗi đều
thị hiện đức hiếu sinh, tức là áp dụng lòng yêu thương vào cuộc sống này thì sẽ
đem lại sự bình an vô cùng.
Hỡi các tu
sinh! Hãy nhớ những bài học đạo đức hiếu sinh này; hãy lấy nó làm sự sống cho
mình; hãy xem nó là một vật quý giá nhất trên đời này; hãy xem nó là một vị thần
hộ mạng; hãy xem nó là linh hồn của mình, mất nó là mình mất linh hồn; hãy xem
nó là bậc cứu tinh của mình. Hỡi các tu sinh, hãy nhớ lấy những lời dạy này!
Cho nên đạo
đức hiếu sinh rất cần cho sự sống của loài người, nó như cơm ăn áo mặc, thiếu
nó con người sẽ khổ đau vô cùng và chết mất.
Một bằng chứng
cụ thể con người đã đánh mất đạo đức, nên thế gian này sống bất
an. Nay chiến tranh nước này, mai chiến tranh nước khác, con người giết con người
không gớm tay; con người giết chết muôn loài động vật để ăn thịt, tiếng kêu la
thảm thiết khắp nơi trên hành tinh này, ngày nào, giờ nào mà không có tiếng kêu
la thảm thiết ấy. Vì con người sống ác như vậy thì bảo sao không có thiên tai,
bão lụt, động đất, sóng thần, hạn hán và thời tiết không hòa thuận, khiến mưa
gió thất thường, mùa màng mất trắng. Con người vốn sinh ra trong đau khổ, lại sống
trong ác pháp khiến con người đau khổ lại còn đau khổ hơn. Hỡi các tu sinh có
nghe thấy điều này chăng?! Đức hiếu sinh của loài người ở đâu? Sao nỡ để cảnh
tàn sát giết lẫn nhau (chiến tranh)? Sao lại nỡ giết hại và ăn thịt chúng sinh?
Ôi! Đau thương vô cùng!
Đã đến lúc
chúng ta cần phải quay trở lại với nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không
làm khổ mình, khổ người và không làm đau khổ chúng sinh.
Trả lời
câu hỏi 59:
“Vượt qua
được nỗi buồn sẽ giúp con tìm ra những giá trị mới mà trước đây con chưa nhận
ra”. Câu này dạy
ĐỨC VƯỢT QUA HIẾU SINH Ý HÀNH.
Từ lòng yêu thương chúng ta mới vượt qua tất cả ác pháp, nhờ đó chúng ta mới tìm ra ánh sáng chân lý soi rọi lại cuộc đời tăm tối của mình. Đúng vậy, nếu không có ánh sáng chân lý thì cuộc đời chúng ta sẽ trôi lăn trong lục đạo (sáu nẻo), liên tục luân hồi.
Đời người
luân hồi từ trạng thái này sang trạng thái khác rất rõ ràng: Có lúc thì làm Trời
tâm tính hiền lành thập thiện; có lúc làm A Tu La hung dữ, ghê tợn hơn quỷ la
sát; có lúc thì làm Người năm đức rõ ràng, đầy lòng yêu thương và tha thứ; có
lúc làm Ngạ Quỷ đói khát khổ sở vô cùng tận; có lúc thì làm loài Bàng Sinh tính
tình ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ mọn, ti tiện; có lúc thì rơi vào Địa
Ngục rên la, đau nhức, khổ sở vô cùng. Trong một ngày một đêm có thể con người
luân hồi trong sáu trạng thái như vậy. Cho nên có buồn, có vui, có rên la, có
giận dữ, có đói khát, có bệnh tật khổ đau liên tục từ ngày này sang ngày khác,
cứ sáu nẻo này luân hồi lặp đi lặp lại. Nếu chúng ta không biết vượt qua thì cuộc
đời sẽ chìm đắm trong vô minh mê mờ, trong đau khổ triền miên bất tận.
Còn biết bao
nhiêu người không đủ duyên gặp được chánh pháp của Phật, không đủ duyên gặp giới
đức hiếu sinh, nên không biết tu tập; không biết sống trong đạo đức hiếu sinh;
không vượt qua khỏi sáu nẻo luân hồi, nên đành cam chịu sống trong sáu cảnh giới
khổ đau mãi mãi.
Người ta
nghĩ tưởng có sáu cõi luân hồi thật sự như: 1- cõi Trời; 2- cõi Người; 3- cõi A
Tu La; 4- cõi Ngạ Quỷ; 5- cõi Bàng Sinh; 6- cõi Địa Ngục. Đó là một sự tưởng tượng
của con người hiểu qua lời Phật dạy.
Phật dạy sáu
cõi luân hồi là sáu trạng thái của một con người, vì thân tâm con người là pháp
vô thường nên thay đổi liên tục. Sự thay đổi thường xảy ra trong sáu trạng thái
này mà trong kinh gọi là luân hồi. Luân hồi không có nghĩa là chết đi và tái
sinh trở lại mới gọi là luân hồi. Luân hồi là từ trạng thái này
chuyển qua trạng thái khác. Khi nhập Tứ Thánh Định, thực hiện Tam Minh, chúng
tôi dùng Thiên Nhãn Minh quan sát xem xét vũ trụ, tìm thế giới siêu hình và sáu
cõi luân hồi thì chúng tôi chẳng thấy có sáu cõi nào cả, mà chỉ thấy từ trường
những trạng thái cảm thọ và những trạng thái tưởng từ con người còn sống lưu xuất
phóng ra.
Biết rõ sáu
nẻo luân hồi như vậy, nên đức Phật dạy:
“Đứng lại
thì chìm xuống
Tiến tới
thì trôi dạt
Chỉ có biết
vượt qua”.
Vậy vượt qua
là vượt qua cái gì?
Vượt qua là
vượt qua sáu cõi luân hồi. Bởi vì con người từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời
và tiếp tục tái sinh đều ở trong sáu trạng thái lục đạo này.
Giới luật đạo
đức của Phật dạy chúng ta không ngoài mục đích là để vượt qua sáu cảnh giới
này. Người nào vượt qua sáu trạng thái này là chứng đạo.
Trong sáu trạng
thái này đức Phật chọn cho chúng ta 2 trạng thái thiện, đó là
trạng thái cõi Trời (Thập Thiện), và trạng thái cõi Người (Ngũ Giới), để chúng
ta dựa vào trạng thái cõi thiện mà vượt qua bốn cõi ác kia. Khi vượt qua bốn
cõi ác kia thì chúng ta cũng bỏ luôn hai cõi thiện này, lúc bấy giờ chỉ còn ở
trong trạng thái cảnh giới Niết Bàn là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.
Bởi ĐỨC VƯỢT
QUA HIẾU SINH Ý HÀNH là một đức hạnh tuyệt vời, nó giúp chúng ta tiến vào cõi
giới Niết Bàn một cách dễ dàng mà không cần phải tu tập một pháp môn nào khác nữa.
Trả lời
câu hỏi 60:
“Con đừng
mong muốn tất cả mọi người phải hiểu mình, chỉ cần chính con hay một người hiểu
là đã đủ cho con rồi”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TIN HIẾU SINH Ý HÀNH.
Con người ở
đời rất sợ mọi người chê cười, khinh rẻ, nên làm một điều gì sai trái xấu xa đều
che đậy, còn ngược lại, làm một điều gì tốt đẹp thì khoe khoang muốn cho mọi
người đều biết, đó là một căn bệnh háo danh của con người từ khi có mặt trên
hành tinh này. Cho nên có ai nói xấu mình thì rất sợ, dù mình có làm hay không
làm nhưng vẫn tìm cách phản kháng, chống trả lại hoặc minh oan.
Khi bị người
khác nói xấu thì cố gắng biện minh bằng cách này, bằng cách khác, để mọi người
hiểu mình là người tốt, người trong sạch. Do hiểu tâm lý này nên người mẹ mới dạy
con: “Con đừng mong muốn tất cả mọi người phải hiểu mình, chỉ cần chính
con hay một người hiểu là đã đủ cho con rồi”. Lời dạy này rất tuyệt vời!
Mình làm ác, làm thiện mình đều biết cả; mình làm gian, làm dối mình đều rõ hơn
ai cả. Nếu mình không có làm sai quấy hoặc chuyện xấu xa gì thì mình cũng biết
mình rất rõ hơn ai hết, thì cần gì mọi người phải biết!?
Ví dụ: Có một
người nói mình với ông A làm ăn gian xảo lường gạt người, nhưng mình không có
làm những điều gian xảo thì người biết rõ mình hơn ai hết là ông A. Cho nên tất
cả những chuyện xấu ác chỉ cần có một người biết rõ mình là đủ.
Người tu
hành theo Phật giáo phải cố gắng rèn luyện nhân cách đạo đức giới luật nhân bản,
nhất là đức hiếu sinh thường mang lại sự an vui cho mình, cho người.
Trong cuộc đời
này, có những người thường hay nói xấu người khác để hạ uy tín, nhưng chúng ta
đừng vì danh lợi của thế gian, đừng vì uy tín nhỏ mọn của cá
nhân mà tranh luận hơn thua với họ. Hiện giờ chúng ta chỉ biết thương họ và
giúp đỡ họ vượt qua những gì họ đang bị ác pháp chi phối và đang cố chấp một định
kiến sai lầm. Chúng ta hãy thương yêu họ thật sự để hướng dẫn họ đi vào con đường
đạo đức nhân bản - nhân quả, để họ tìm thấy con đường giải thoát; để họ thoát
khỏi mọi khổ đau, vì vô minh cố chấp nên họ mới tạo ra những điều ác đó.
Chỉ có đức
hiếu sinh sẽ giúp chúng ta tha thứ và yêu thương họ, giúp họ vượt qua mọi khó
khăn. Đức Phật thường dạy: “Lấy tình thương mà rửa hận thù thì hận thù
sẽ tiêu tan”. Đúng vậy, không có gì quý hơn lòng thương yêu và tha thứ,
lòng yêu thương và tha thứ đi đến đâu thì các ác pháp sẽ rơi rụng như lá vàng
mùa thu.
Hỡi các tu
sinh! Hãy mau mau tu học đức hiếu sinh và áp dụng vào đời sống hằng ngày của
mình, nó sẽ là con đường dẫn chúng ta chứng đạo không còn xa. Vì ĐỨC HIẾU SINH
mang đầy đủ bốn đức trong TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Đó là đức TỪ, đức BI, đức HỶ, đức XẢ.
Bốn đức này tạo thành một năng lực mạnh mẽ vô cùng, không có pháp nào mạnh hơn
nó được. Nó là một pháp môn ly dục, ly ác pháp tuyệt vời; nó bảo vệ và giữ gìn
tâm bất động. Cho nên không có một chướng ngại nào, một pháp ác
nào mà nó xả không được. Hầu hết những bậc Thánh tăng trong thời đức Phật đều
chứng đạo bằng con đường đức hiếu sinh này, bằng chính những giới luật đức hạnh
này.
Trả lời
câu hỏi 61:
“Hãy sống
thật với cảm xúc của chính mình, những giọt nước mắt, những lời chân thật từ
trái tim trong một lúc nào đó sẽ giúp con vơi nhẹ nỗi buồn xúc cảm tổn thương”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH CHÂN
THẬT Ý HÀNH, tức là lòng yêu thương chân thật từ trong trái tim của mình đối với
sự sống của con người và của muôn vật.
Chỉ khi nào
chúng ta ban tặng cho mọi người lòng yêu thương chân thật, tận nơi tâm hồn sâu
thẳm của chúng ta thì mới thấy hiệu quả xả tâm tuyệt vời của đức hiếu sinh này.
Chúng ta nói
thương yêu chứ thật lòng chưa chắc chúng ta đã thương yêu. Chúng ta cứ xét lại
xem có đúng như vậy không?
Tình thương
yêu hiện giờ có trong chúng ta chỉ là tình thương yêu một hướng, có nghĩa là
lòng yêu thương ấy dễ bị mất. Bình thường không có ác pháp thì thấy nó yêu
thương, nhưng khi có ác pháp nó liền biến mất và nhường lại cho
tâm chúng ta những cơn sân dữ tợn, những nỗi buồn khổ đau da diết từ ngày này
sang ngày khác. Cho nên ai cũng có tình thương yêu, nhưng tình thương yêu ấy
chưa sâu thẳm trong tận tâm hồn. Vì thế chúng ta học đức hiếu sinh, chứ chúng
ta chưa có đức hiếu sinh. Hiểu được như vậy chúng ta cần phải rèn luyện và áp dụng
vào đời sống hằng ngày nhiều hơn nữa.
Khi áp dụng
tình thương yêu vào đời sống thì chúng ta hãy xem xét lại thân, khẩu, ý mình
cho kỹ càng, rồi lần lượt tâm ấy sẽ hiện rõ trong chúng ta. Và khi nó hiện rõ
trong chúng ta thì không có một ác pháp nào hay một chướng ngại pháp nào đến với
chúng ta được. Những ác pháp đến đều bị nó quét sạch ra ngoài, không bao giờ bỏ
sót một ác pháp nào cả, dù pháp ấy rất vi tế. Do đó tâm chúng ta bất động hoàn
toàn với sự thanh thản, an lạc và vô sự một cách tự nhiên.
Trả lời
câu hỏi 62:
“Hãy trầm
tĩnh và bao dung với những người đã gây cho con nỗi đau”. Câu này dạy ĐỨC TRẦM TĨNH BAO
DUNG HIẾU SINH Ý HÀNH.
Chỉ có đức
trầm tĩnh thương yêu và bao dung tha thứ bất cứ người nào gây đau khổ cho
chúng ta, thì ngay đó cũng chuyển đổi những nhân quả khổ đau thành nhân quả an
vui. Chính đức trầm tĩnh với lòng yêu thương chân thật đã đem lại sự bình an
cho cuộc sống chung nhau trên hành tinh này.
Muốn có đức
trầm tĩnh thì chúng ta cần phải tu tập tâm định tĩnh. Tập tâm định tĩnh bằng
cách nào?
Tập tâm định
tĩnh có hai phương pháp:
1- Đi
kinh hành tập Chánh Niệm Tỉnh Giác.
2- Ngồi
kiết già lưng thẳng nương vào hơi thở vô và hơi thở ra.
Hai phương
pháp trên đây tu tập phải kỹ lưỡng mới có kết quả. Trước khi đi kinh hành phải
tác ý: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, tác ý xong liền
bước đi. Đi kinh hành đúng 20 bước phải đứng lại tác ý một lần nữa: “Đi
kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Cứ tác ý rồi bước đi kinh hành
như vậy từ 30’ đến 1 giờ mới xả nghỉ.
Về hơi thở
thì phải ngồi kiết già hoặc bán già lưng thẳng, khi cơ thể ngồi an ổn rồi mới
tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Tác
ý xong hít vô, thở ra 5 hơi thở rồi lại tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít
vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, và tiếp tục hít vô thở
ra 5 hơi thở nữa. Cứ tiếp tu tập như vậy từ 30’ đến 1 giờ rồi mới xả nghỉ.
Có tu tập tỉnh
thức đi kinh hành và hơi thở như vậy thì tâm chúng ta mới trầm tĩnh trước ác
pháp. Các ác pháp rất nghiệt ngã, nó có một sức hút rất mạnh, khi gặp tâm người
nào còn tham, sân, si, mạn, nghi thì người ấy không còn đủ sức bình tĩnh nữa. Nếu
biết tâm mình còn tham, sân, si, mạn, nghi thì lúc ấy nên nhiếp tâm và an trú
vào hơi thở để vượt qua lực hút quá mạnh của các ác pháp.
Các tu sinh
nên nhớ: Ít nhất sự tu tập tỉnh thức này phải từ 30’ đến 1 giờ. Nhờ hằng ngày
siêng tu tập tỉnh thức như vậy, khi gặp ác pháp tâm mới trầm
tĩnh. Khi tâm trầm tĩnh thì mới đủ sáng suốt chánh tư duy. Còn tâm chưa đủ trầm
tĩnh sáng suốt là tà tư duy. Khi tâm được bình tĩnh, mới thấy rõ đâu là ác
pháp, đâu là thiện pháp; đâu là tình yêu thương nhiều hướng, đâu là tình yêu
thương một hướng; đâu là tham, sân, si, mạn, nghi; đâu là Tứ Vô Lượng Tâm; đâu
là nhân, là quả; đâu là ái kiết sử; đâu là các pháp vô thường, khổ, vô ngã,
v.v…
Nhờ có đức
trầm tĩnh, chúng ta mới đủ sức hộ trì lòng yêu thương đương đầu với tất cả ác
pháp, nhờ đó mới đem lại sự bình an cho thân tâm chúng ta.
ĐỨC TRẦM
TĨNH BAO DUNG HIẾU SINH Ý HÀNH là một đức hạnh quan trọng và cần thiết cho những
người tu hành tìm cầu sự giải thoát, nhưng nó phải tu tập, chứ không phải tự
nhiên mà có được. Vậy tất cả các tu sinh phải tinh tấn siêng năng tu hành rèn
luyện đức trầm tĩnh bao dung từng phút, từng giây thì mới có được, chứ không phải
dễ. Xin lưu ý!
Trả lời
câu hỏi 63:
“Mỗi ngày
sẽ là một ngày mới, với những điều tốt lành và bất ngờ nhất sẽ đến cùng với sự
cố gắng của mình”. Câu
này dạy ĐỨC CHUYỂN HÓA HIẾU SINH Ý HÀNH.
Nếu chúng ta
cứ sống trong tình yêu thương, không bao giờ lìa xa đức hiếu sinh thì mỗi ngày
qua là một sự thay đổi rất lớn trong thân tâm, một sự thay đổi không thể ai ngờ
được: Thân bắt đầu thay đổi ít bệnh, và nếu trong thân có những bệnh nan y, ngặt
nghèo thì nó lần lần tự điều phục không còn bệnh nữa; còn tâm thay đổi nên ít
muốn biết đủ, không bao giờ còn ham muốn cái này cái kia nữa; nhất là ăn uống
ai cho ăn cái gì thì ăn cái nấy, không còn thèm ăn cái này, cái khác nữa; ngủ
thì không chiêm bao và tâm lúc nào cũng hiền hòa, luôn luôn mở rộng lòng tha thứ
và thương yêu mọi người, mọi vật.
Bởi vậy, người
tu tập đức hiếu sinh thì lòng thương yêu sẽ mang đến cho chúng ta những lợi lạc
lớn như vậy. Có thân mà ít bệnh và bệnh cũng rất nhẹ nhàng. Có tâm nhưng tâm
không biết giận hờn, oán ghét ai hết. Đó là những điều hạnh phúc nhất trên cuộc
đời này, nếu ai sống được với đức hiếu sinh và lòng tha thứ.
Bởi vậy cái
nhìn, cái thấy và sự hiểu biết của ông Phú Lâu Na khác thường hơn mọi người, vì
ông sống với lòng yêu thương chân thật tự trong trái tim của
ông, cho nên ông đối với mọi người đều thấy ai cũng là người tốt. Ông có cái
tâm tuyệt vời, chỉ duy nhất thấy mọi người thương ông, chứ không có người nào
ghét ông.
Đúng, ông là
một người chứng quả A La Hán mới có cái thấy kỳ lạ như vậy; cái thấy người nào
cũng thương mình. Dù người ấy làm bất cứ một điều gì đau khổ cho ông, ông cũng
thấy họ thương ông. Một người bình thường không làm sao có cái nhìn như ông được.
Nên cả một thế gian này có được mấy người như ông?!
Bởi vậy đức
hiếu sinh là duy nhất, là tuyệt vời, làm thay đổi từ một người phàm phu trở
thành một bậc Thánh nhân vô lậu. Chúng ta hôm nay là người đã đủ duyên phước được
sinh làm người, được học và tu tập để sống trong đạo đức hiếu sinh. Vậy chúng
ta hãy cố gắng trau dồi và rèn luyện nhân cách đạo đức hiếu sinh, để làm thay đổi
một con người đang làm nô lệ cho nghiệp báo nhân quả trở thành một con người
làm chủ nghiệp báo nhân quả.
Khi nào làm
chủ được nghiệp báo nhân quả thì lúc bấy giờ chúng ta là người chiến thắng. Đó
là một nguồn vui vô cùng, vô tận.
Trả lời
câu hỏi 64:
“Những gì
đã qua sẽ trở thành vốn sống của con”. Câu này dạy ĐỨC TÍCH LŨY HIẾU SINH Ý HÀNH.
Muốn làm chủ
nghiệp báo nhân quả thì mỗi ngày phải tích lũy lòng yêu thương của mình. Trong
cuộc sống hằng ngày đừng bỏ qua một phút giây nào cả, lúc nào cũng siêng năng,
chuyên cần tích lũy lòng yêu thương của mình đối với cỏ cây, đất đá, các loài động
vật dù con vật nhỏ nhất, chúng ta cũng quan tâm để góp nhặt thêm lòng thương
yêu, ngày nào cũng góp nhặt, giờ nào cũng góp nhặt, phút nào cũng góp nhặt. Có
siêng năng tu tập góp nhặt như vậy thì chúng ta mới trở thành đức hiếu sinh và
đức hiếu sinh mới trở thành chúng ta.
Bởi có tu tập
như vậy một tháng, hai tháng hoặc ba tháng, năm tháng, hay một năm, hai năm hoặc
ba năm thì mới thành một thói quen đạo đức hiếu sinh. Chừng đó không nói ra thì
thôi, mà đã nói ra là nói ra lời êm ái dịu dàng, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn,
làm cho người nghe có thiện cảm ngay liền. Còn những lời nói sai, nói xấu người,
nói oan ức người, nói lời không đúng sự thật, nói lời hung dữ, chửi mắng, mạ lị,
mạt sát người thì không bao giờ nói, vì đó là những lời nói độc
ác. Những lời nói như vậy là những giọt máu đau khổ của người khác.
Cho nên khi
nói ra cần phải cẩn thận, dè dặt không được nói ra những lời ác như vậy. Người
có đạo đức hiếu sinh không thể có những lời nói như vậy. Những người không học
tập rèn luyện đạo đức hiếu sinh thì thường tích lũy những lời nói ác thiếu đạo
đức, thiếu văn hóa. Hằng ngày thường huân tập nên nó đã thành một thói một quen
thiếu đạo đức, khi họ không nói ra thì thôi, mà đã nói ra là nói những lời thô
ác, hung dữ, bẩn thỉu, chửi bới, thề thốt, v.v…
Người có
huân tập đạo đức hiếu sinh thì mỗi hành động đều chững chạc cẩn thận, không vội
vàng hấp tấp, làm việc gì cũng nhìn trước ngó sau, không bao giờ có thể để sơ
sót dù một hành động nhỏ nhặt nào, nhờ đó mà thể hiện đức điềm đạm.
Bởi sự tu tập
rèn luyện nhân cách nào cũng bắt nguồn từ sự tích lũy đức hạnh, nếu không tích
lũy thì không bao giờ có tình thương yêu. Cho nên đức tích lũy hiếu sinh rất
quan trọng và cần thiết để trở thành một lòng yêu thương chân thật. Chỉ có lòng
yêu thương chân thật mới giúp chúng ta ly dục, ly ác pháp; mới
giúp chúng ta thành tựu con đường tu tập giải thoát và ra khỏi những sự khổ đau
của kiếp người.
Hỡi các tu
sinh có nghe thấy lời dạy này không? Ngay bây giờ, chúng ta đừng bỏ phí một thời
gian nào cả, dù một sát na, vì thời gian trôi qua không lấy lại được. Được thân
người là khó, được gặp chánh pháp còn khó hơn. Cho nên thời gian hiện giờ rất
là quý báu vô cùng. Như chúng ta đã biết, học đạo đức không phải là học thuộc
lòng, mà là một sự tích lũy từng hành động đạo đức để huân tập thành một thói
quen đức hạnh, nhờ đó mới biến chúng ta thành Thánh Hiền.
Trả lời
câu hỏi 65:
“Cuộc sống
không có điều gì mất đi mà không mang đến cho ai đó điều gì mới mẻ, bổ ích
hơn”. Câu này dạy
ĐỨC HIẾU SINH LÀM THAY ĐỔI CUỘC SỐNG Ý HÀNH.
Như chúng ta
đã biết, một thiện pháp tăng trưởng là một ác pháp bị tiêu diệt, cho nên trong
câu hỏi, lời người mẹ khuyên con rất tuyệt vời: “Cuộc sống không có điều
gì mất đi mà không mang đến cho ai đó điều gì mới mẻ, bổ ích hơn”. Đúng
vậy, càng sống trong đức hiếu sinh thì ác pháp sẽ bị triệt tiêu để thay thế vào
một thiện pháp, một lòng thương rộng lớn vô bờ bến.
Điều này là
một điều tất nhiên, vì đúng theo qui luật duyên hợp của nhân quả
cái này diệt thì cái kia sinh, cho nên sự sinh diệt liên tục. Do hiểu biết qui
luật nhân quả duyên tan hợp, nên đức Phật dạy chúng ta: “Ngăn ác diệt
ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Vì thế, các pháp của Ngài
dạy tu tập đều là giới luật đức hạnh thiện pháp để làm thay đổi sự sống trên
hành tinh này. Nhưng con người không hiểu giáo pháp của Phật, nên bỏ giới luật
đức hạnh không tu tập mà lại tu tập theo các pháp thiền và các pháp cầu cúng, tụng
niệm kinh, chú theo ngoại đạo Bà La Môn. Từ đó giới luật đức hạnh của Phật giáo
chỉ còn tụng đọc suông chơi, chứ chẳng có ý nghĩa tu hành đạo đức gì cả. Thật
là quá uổng! Có của báu mà không biết giữ gìn, không biết xử dụng.
Trả lời
câu hỏi 66:
“Nếu con
chưa tìm được thì con hãy suy nghĩ sâu sắc, tĩnh lặng để nhận ra điều đó, và đừng
lãng phí thời gian một khi con đã hiểu”. Câu này dạy ĐỨC TĨNH LẶNG HIẾU SINH Ý HÀNH.
Chỉ có sự
tĩnh lặng trước mọi khó khăn, gian khổ; trước mọi ác pháp nghiệt ngã
thì chúng ta mới đủ sức thực hiện đức hiếu sinh. Còn nếu thiếu
sự tĩnh lặng thì chúng ta không đủ trí sáng suốt. Không đủ trí sáng suốt thì
lúc bấy giờ chúng ta có dùng đức hiếu sinh cũng chỉ là phương pháp ức chế tâm
mà thôi. Vậy muốn có sự tĩnh lặng thì phải tu tập phương pháp nào?
Muốn có sự tĩnh
lặng thì phải tu tập pháp môn Định Niệm Hơi Thở đề mục thứ bảy: “An tịnh
tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Tác
ý câu này xong liền hít thở 5 hơi thở rồi tác ý trở lại. Cứ như vậy tu tập 30’.
Tu tập thấy không có vọng niệm khởi thì tác ý lần đầu rồi để tự nhiên tâm biết
hơi thở ra vô nhẹ nhàng. Lúc bấy giờ chỉ còn một sự tĩnh lặng sáng suốt vô
cùng. Tu tập như vậy chỉ nên kéo dài sự tĩnh lặng trong 1 giờ, chứ
không nên tu tập nhiều hơn nữa. Sức tĩnh lặng trong một giờ đủ sức
giúp chúng ta xử dụng đức hiếu sinh để chuyển hóa làm thay đổi nhân quả ác
thành nhân quả thiện, cuộc sống đang khổ đau thành cuộc sống an vui và hạnh
phúc.
Sự tu tập có
lợi ích lớn như vậy, vì thế chúng ta phải cố gắng tu tập cho nhiều hơn nữa. Hằng
ngày, lúc nào cũng tìm mọi cách để sống với đức hiếu sinh từ thân, khẩu,
ý, luôn luôn đều thể hiện đức hiếu sinh, không được bỏ qua một
giây phút nào cả, mỗi phút giây đi qua mà không tu tập là quá uổng.
Trả lời
câu hỏi 67:
“Những gì
con cho đi hôm nay từ trái tim, chắc chắn con sẽ nhận lại được từ trái tim ngày
mai hoặc sau này”. Câu
này dạy ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH Ý HÀNH.
Chúng ta hãy
ban tình thương cho mọi người, thì điều đó chắc chắn mọi người sẽ học tình
thương của chúng ta, và vì vậy mọi người sẽ ban tình thương lại cho chúng ta.
Trong Áo
Nghĩa Thư có dạy:
“Từ tình
thương chúng ta được sinh ra
Do tình
thương chúng ta được nuôi lớn
Nhờ tình
thương chúng ta được an vui”.
Đức hiếu
sinh là một bài học đạo đức thứ nhất trong giới luật của Phật giáo. Bài học này
có một giá trị và lợi ích rất lớn đối với những người tu hành làm đệ tử Phật. Nếu
ai muốn tu hành để tìm cầu sự giải thoát làm chủ sự sống chết thì phải áp dụng
giới luật đức hiếu sinh này ngay từ lúc bắt đầu học đạo đức hiếu sinh. Bài học
đạo đức hiếu sinh này bất cứ một hành động nào nơi thân, khẩu, ý của mình đều
phải được áp dụng ngay liền, thì ngay đó sẽ tìm thấy được sự an
vui. Và vì vậy không còn có một ác pháp nào tác động vào thân tâm chúng ta được
nữa.
Hôm nay
chúng ta được học và tu tập rèn luyện đạo đức hiếu sinh, thì hãy cố gắng tu tập
rèn luyện hết sức mình. Vì đức hiếu sinh là mạng sống của chúng ta, mất đức hiếu
sinh là chúng ta mất mạng, cho nên phải siêng năng chuyên cần tu tập, rèn luyện
đừng biếng trễ.
Sau khi mất
thân rồi không biết có còn sinh làm người nữa được hay không? Nếu được sinh làm
người mà biết có may mắn gặp được chánh pháp đạo đức này hay không? Ngàn năm một
thuở! Chúng ta hãy nhìn lại đi: Hiện giờ có bao nhiêu người về Tu Viện tu học đạo
đức? Còn biết bao nhiêu người, hàng vạn triệu triệu người không nghe, không biết
đạo đức này, thì lấy chi tu tập để thoát ra sáu nẻo luân hồi; để chấm dứt sinh
tử khổ đau?
Trả lời
câu hỏi 68:
“Và con đừng
chỉ cầu mong, ước mơ không mà hãy hành động. Hãy sống giản dị, chân thành và thật
lòng”. Câu này
dạy ĐỨC GIẢN DỊ VÀ CHÂN THÀNH HIẾU SINH Ý HÀNH.
Đức hiếu
sinh giản dị và chân thành lúc nào nó cũng gần gũi bên chúng
ta, chúng ta dễ xa lìa nó, chứ nó không bao giờ xa lìa chúng ta. Hễ chúng ta cần
là nó có mặt ngay liền. Chỉ vì tâm chúng ta còn tham, sân, si, mạn, nghi quá
nhiều, nên đức hiếu sinh phải đành biết mất.
Một người tu
hành sống giản dị ít muốn biết đủ, đó cũng là thực hành đức hiếu sinh thương
mình, thương người. Một người sống với đời sống ba y, một bát đi xin ăn ngày một
bữa, ai cho gì ăn nấy không khen chê, đó là đức hiếu sinh thân hành. Một người
tâm hồn phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, tâm lúc nào cũng thanh
thản, an vui và vô sự, đó là đức hiếu sinh. Một người sống độc cư trầm lặng một
mình trong thất tu tập Định Niệm Hơi Thở, tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, tu tập
Thân Hành Niệm, tu tập Tứ Niệm Xứ, đó là người sống với đức hiếu sinh thân
hành. Ăn ngày một bữa, sống biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng trong mọi
hoàn cảnh, mọi người, đó là người sống với đức hiếu sinh thân hành, ý hành, khẩu
hành. Mọi hành động thân, khẩu, ý hành đều không làm khổ chúng sinh, đó là sống
với đức hiếu sinh thân, khẩu, ý hành.
Đức hiếu
sinh rất giản dị và chân thành với mỗi hành động của chúng ta. Vậy nó có
gì khó áp dụng vào đời sống của chúng ta đâu? Chỉ chúng ta có
quyết tâm quyết chí tìm cầu sự giải thoát ra khỏi con đường sinh tử luân hồi,
thì hằng ngày chỉ có gia công thực hiện ngay trong cuộc sống của chúng ta mà
thôi. Còn không quyết tâm, quyết chí rèn luyện đức hiếu sinh thì chúng ta đành
chịu, đành chấp nhận khổ đau.
Tu hành
không khó, chỉ khó là chúng ta chưa muốn bỏ những dục lạc ở thế gian. Nhất là
chúng ta còn quyến luyến chưa muốn bỏ danh lợi, vật chất thế gian mà thôi. Cho
nên xả bỏ buông xuống không phải khó. Chúng ta biết rất rõ đời còn có nhiều vật
chất đầy cám dỗ dục lạc, nhưng chúng ta có biết đâu những dục lạc thế gian là
những thuốc độc.
Ví dụ: Ai
cũng biết rượu, thuốc lá, thuốc phiện, sắc dục là những chất độc dễ khiến cho
cơ thể thành bệnh tật, nhưng mấy ai tránh khỏi, không vướng thứ này thì vướng mắc
phải thứ kia. Thật là đáng buồn! Biết độc mà không muốn bỏ.
Ai cũng biết
thân tâm này vô thường, là khổ, là vô ngã, không có gì là ta, là của ta, là bản
ngã của ta, thế mà có mấy ai bỏ nó được chưa? Biết mà không bỏ, không dẹp nó được,
thì cái biết? Cái nói của chúng ta cũng như con chim học tiếng người, chứ có
ích lợi gì. Phải không hỡi các tu sinh? Vì bỏ không được nên mọi người phạm giới,
phá giới, nên không áp dụng đức hiếu sinh vào cuộc sống hằng ngày, do đó sự đau
khổ lại còn đau khổ nhiều hơn nữa. Hơn ba tháng học đạo đức đã trôi qua, chúng
ta không sống với đức hiếu sinh được là tệ lắm. Phải không các tu sinh?
Trả lời
câu hỏi 69:
“Con hãy
tin là cuộc sống luôn có luật nhân quả, sẽ luôn công bằng, có trước có sau với
tất cả mọi người, với những gì mà con có thể làm được và nên làm”. Câu này dạy ĐỨC NHÂN QUẢ HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Ai cũng biết
qui luật nhân quả điều hành tất cả vạn vật trong vũ trụ, không
một vật gì vượt qua khỏi sự điều hành này, nhưng có một hành động ĐỨC NHÂN QUẢ
HIẾU SINH Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH sẽ không những vượt qua mà còn làm chủ
qui luật nhân quả này. Quý vị có tin lời nói này không?
Đức hiếu
sinh như quý vị đều biết, nó là tâm TỪ, BI, HỶ, XẢ của Phật giáo, nó là một
phương pháp làm chủ nhân quả thân hành, khẩu hành và ý hành của mọi người. Nếu
một người quyết tâm tìm cầu sự giải thoát, thì phải thấy giá trị của đức hiếu
sinh này. Biết giá trị giải thoát của nó như vậy thì không thể nào tu tập lơ
là, tu tập lấy có, mà phải tu tập thật sự, tu tập hết sức mình và phải cố gắng
nhiều hơn nữa.
Tu tập đức
hiếu sinh phải tích cực, nỗ lực áp dụng đức hiếu sinh vào từng hành động lúc
làm việc, lúc nói chuyện với mọi người, cũng như lúc ở trong thất một mình, lúc
ăn cơm, lúc uống nước, lúc ngồi chơi một mình, v.v.. lúc nào cũng tu tập.
Như quý vị đều
biết: Đức hiếu sinh là đệ nhất thiện pháp của tất cả thiện pháp, nên khi nó hiện
hữu thì không có ác pháp nào mà nó không chuyển hóa được. Đó là đứng về mặt
nhân quả, còn đứng về mặt đạo đức thì nó là một hành động đạo đức
nhân bản cao thượng đẹp đẽ tuyệt vời, nó đi đến đâu là đem đến sự an vui cho mọi
người, mọi loài vật đến đó.
Trả lời
câu hỏi 70:
“Con hãy
tin vào điều kỳ diệu và mầu nhiệm của tâm hồn con người, của cuộc sống, và nhất
là tin vào chính con. Một ngày mới sẽ mở ra cho con”. Câu này dạy ĐỨC TỰ TÍN HIẾU
SINH Ý HÀNH.
Bảng tuyên
ngôn danh dự của loài người mà cách đây hơn 2550 năm, đức Phật đã dõng dạc
tuyên bố:
“Thiên
thượng, thiên hạ
Duy ngã độc
tôn
Nhất thiết
thế gian
Sinh,
lão, bệnh, tử”.
Bốn câu kệ
này có nghĩa là:
“Trên trời,
dưới trời
Khắp
trong thế gian
Ta người
duy nhất
Làm chủ:
Sinh, già, bệnh, chết”.
Vậy chúng ta
là con người như Phật, Phật đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết được thì chúng ta
cũng làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.
Một lần nữa
đức Phật đã dạy chúng ta: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ
là người hướng dẫn đường mà thôi” .
Lại một lần
nữa đức Phật đã dạy chúng ta: “Đừng tin ai, hãy tự tin mình, hãy lấy
mình làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa vững chắc…”.
Chúng ta hãy
tự tin vào lòng yêu thương của chúng ta sẽ chuyển hóa và làm thay đổi nhân quả
sự sống của chúng ta hiện giờ.
Chỉ có đức
tin, nhưng không tin vào ai cả, mà hãy tin nơi mình. Mình là con người, mà con
người sẽ làm nên những chuyện vĩ đại. Điều này quý vị có tin không? Một đức Phật
Thích Ca Mâu Ni và còn biết bao nhiêu vị A La Hán nữa, họ đã làm được thì chúng
ta cũng sẽ làm được như họ.
Tóm lại, bài
học này đã dạy cho chúng ta ở mọi góc độ đức hạnh hiếu sinh qua lời dạy của người
mẹ nói lên lòng thương yêu cao cả như trời biển.
Nhạc sĩ Y
Vân với bài LÒNG MẸ đã nói lên được tình thương cao cả của người mẹ: “Lòng
mẹ thương con như biển Thái Bình dạt dào”.
Nói đến lòng
yêu thương thì lòng mẹ thương con là tuyệt vời: “Mẹ rất nhớ thương con,
nhưng sợ có mẹ một bên thì lòng con sẽ yếu mềm không vượt qua những khó khăn,
những khúc quanh trong cuộc đời đang chờ con”.
Con buồn khổ
thì mẹ có vui đâu, con gặp tai nạn thì mẹ khóc hết nước mắt; con bệnh tật thì mẹ
thức suốt đêm bên con. Tất cả những hành động này là lòng thương yêu của người
mẹ.
Chúng ta hôm
nay học đạo đức hiếu sinh là học tình thương của một người mẹ, dù con mình như
thế nào, nó cũng là con mình. Phải yêu thương tận tình, phải giúp đỡ nó hết sức
mình, để cho nó vượt qua những lúc gặp chuyện khó khăn, gian nan, khốn khổ.
Chúng ta sống
với lòng yêu thương mọi người, mọi vật như lòng thương của người mẹ thương con.
Người hung ác nói xấu, mạ lị, mắng chửi, mạt sát chúng ta. Chúng ta nghe, thấy
những điều nói xấu ác đó rất rõ ràng, nhưng tâm chúng ta lại nghĩ rằng
những điều nói xấu ác đó là nhân quả, mà người nói ấy đang bị nhân quả sai khiến.
Vì vậy chúng ta nên thương họ nhiều hơn, vì họ là người đang đau khổ,
họ là người đáng thương. Trong lúc đó, nếu chúng ta chỉ cần hiểu
sai lòng thương yêu một chút xíu là tâm phiền não của chúng ta nổi lên; chỉ một
chút xíu thôi là chúng ta cũng bị nhân quả chi phối ngay liền. Chúng ta biết chắc
người đang bị nhân quả sai khiến như vậy họ là người đang đau khổ ghê gớm lắm,
vì vậy chúng ta nên khởi lòng yêu thương họ như người mẹ thương con. Lòng yêu
thương ấy sẽ giúp chúng ta chuyển đổi nhân quả một cách dễ dàng. Chỉ có lòng
thương yêu thật tình như mẹ thương con thì nhân quả không còn tác động vào tâm
chúng ta được, và chúng ta sẽ sống thanh thản, an lạc và vô sự.
Trên đường
tìm chân lí, quý vị đừng nghĩ rằng nó quá xa vời. Nó không quá xa vời đâu, nếu
quý vị dốc lòng thực hiện đúng đạo đức hiếu sinh trong cuộc sống hằng ngày thì
mục tiêu sẽ đạt được không có khó khăn, không có mệt học.
Sau ba tháng
học đạo đức hiếu sinh, chúng tôi tin chắc rằng quý tu sinh đều có những kết quả,
chứ không phải không.
“Có một cậu
bé ra công đào một cái hố, một người đi ngang qua hỏi:
- Cháu đào hố để làm
gì?
Cậu bé trả lời:
- Cháu định đào con đường đi xuyên
qua trái đất.
- Cháu làm một điều không tưởng.
Cậu bé chỉ
tay vào đống đất, đá và nói:
- Dù cháu không đào được đến bên
kia trái đất, nhưng cháu cũng giúp ba cháu có đất, đá xây nhà.
Mục tiêu của
câu bé có thể quá xa vời, nhưng nó đã làm cho cậu bé dốc lòng thực hiện. Và đó
chính là ý nghĩa của mục tiêu. Mục tiêu sẽ làm cho ta đi đúng hướng mà ta đã chọn.
Nhưng không phải lúc nào ta cũng hoàn thành tốt đẹp những điều đã đặt ra. Không
phải mối quan hệ nào cũng bền vững. Không phải tình yêu nào cũng vĩnh cửu.
Không phải nỗ lực nào cũng được đền bù. Không phải ước mơ nào cũng thành sự thật.
Nhưng khi không đạt được mục đích, ta có thể nói: “Đúng, dù không thành
công, nhưng hãy nhìn xem ta có được gì nào. Hãy nhìn những thứ tuyệt vời đã đến
với ta trên chặng đường ấy, nó đã bù đắp cho những nỗ lực của ta, vì không nản
chí”.
Khi chiến đấu
cho mục tiêu của mình là khi ta sống thật nhất. Và tôi cho rằng,
chính niềm vui trên từng chặng đường đi, chứ không phải là đích
đến, mới là điều quan trọng”.
(Phỏng theo
Niềm Vui Trên Đường Đời, trong tập sách Sự Giàu Có Tâm Hồn, trang 46)
Các tu sinh
có nhận ra những điều chúng ta đang tu học chưa?
Mục tiêu chúng ta nhắm là phải làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Nhưng trên những chặng đường tu tập, chúng ta đã thu nhặt những kết quả không phải ít. Nếu các tu sinh thật lòng tu tập thì kết quả làm chủ sinh, già, bệnh, chết rất rõ ràng, không phải là một chuyện mơ hồ, trong tưởng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét