GIÁO ÁN RÈN NHÂN CÁCH LỚP NGŨ GIỚI ĐẠO ĐỨC LY THAM - TẬP 1/ 19
TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI/ 1
1- “Ngày
xưa, ở trong vùng nông thôn xa xôi, có hai anh em nhà kia trẻ tuổi đáng yêu. Họ
cũng giống như bất cứ chàng tra i trẻ nào mà bạn có thể bắt gặp hôm nay.
Tuy nhiên
tính khí của hai anh em rất ngỗ nghịch. Và mọi việc trở nên nghiêm trọng khi
hai anh em bắt đầu đi ăn trộm cừu của những nông dân trong vùng - một hành vi bị
coi là trọng tội”. Câu
này dạy THIẾU ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH.
Con người
sinh ra vốn có bản chất tham. Tại sao bản chất tham lại có sẵn trong mỗi người
như vậy? Bản chất tham có sẵn trong mỗi con người là do duyên sắc dục làm chất
xúc tác cho năm duyên: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp lại, cho nên con người
sinh ra đều do gốc sắc dục mà sắc dục là lòng tham muốn trong thân ngũ uẩn tạo
tác thành qui luật nhân quả. Qui luật nhân quả tạo tác thành nghiệp báo, khi
nói đến qui luật nhân quả là nói đến hành động thiện ác tác thành nghiệp báo.
Nói đến hành động thiện ác tác thành nghiệp báo là biết ngay do lòng tham muốn
của mỗi người làm gốc thúc đẩy. Từ lòng tham muốn của con người mà sinh ra vô
vàn sự đau khổ, vì thế hôm nay chúng ta tu học và rèn luyện nhân cách đức ly
tham để chấm dứt tham dục. Chấm dứt tham dục thì mọi sự khổ đau và tái sinh
luân hồi chấm dứt.
Muốn biết
tâm có tham hay không có tham là chúng ta phải có thời gian sống một mình, có sống
một mình mới thấy được tâm mình, nhờ có sống độc cư trầm lặng một mình, khi mỗi
niệm khởi lên là không qua khỏi mắt ý thức quan sát của chúng ta. Khi có niệm
khởi lên là chúng ta thấy biết niệm có tham hay không tham, niệm có tham là ác
pháp là chúng ta liền tác ý ly tham: “Đây là niệm tham mày hãy đi đi! Ở đây
không có chỗ cho mày ở hãy đi khỏi nơi này”. Cứ mỗi niệm tham khởi lên là bị đuổi
đi liền, đó là phương pháp tu tập để tạo thành đức ly tham. Tu tập như vậy cho
đến khi đức ly tham hiện tiền luôn luôn có mặt trong chúng ta thì tâm tham đã bị
diệt trừ. Tâm tham đã bị diệt trừ thì đức ly tham hiện tiền và như vậy con đường
giải thoát tu tập đến đây đã hoàn mãn.
2- “Một lần
nọ cả hai anh em bị bắt quả tang. Dân làng quyết định trừng phạt bằng cách
thích lên trán họ “ST” (tên trộm cừu) như một dấu ấn tội lỗi sẽ theo họ mãi mãi
suốt đời”. Câu này dạy
BẢNG ÁN THIẾU ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH.
Khắc lên
trán người lấy trộm hay người cướp giựt hai chữ “Ăn trộm” hay “Ăn cướp” là một
hình phạt quá nặng. Theo chúng tôi thiển nghĩ : Không nên phạt như vậy mà hãy
thương yêu họ. Họ là những người đáng thương hại. Vì không được học đạo đức ly
tham, nên mới sinh ra những hành động lấy của không cho, trộm cắp, cướp giựt,
móc túi v.v…Nếu họ biết đó là những hành động xấu xa, tệ hại, hèn hạ, đê tiện,
mất nhân tính phẩm chất con người, đó là một hành động vô đạo đức làm khổ mình,
khổ người và còn làm mất trật tự an ninh xã hội trong xóm, làng, thị trấn, thị
xã, thành phố, thủ đô v.v….
Nếu Nhà nước
bắt những người trộm, cướp, móc túi, hiếp dâm, mãi dâm thì nên đem cải tạo cho
họ dự vào các lớp học đạo đức nhân bản - nhân quả. Sau khi mãn những khóa học đạo
đức này, người nào thi tốt nghiệp đậu sẽ cho về, còn người nào thi rớt cho ở lại
học tiếp, chừng nào tốt nghiệp những lớp đạo đức nhân bản - nhân quả sống không
làm khổ mình, khổ người và không khổ tất cả chúng sinh này xong thì cho họ trở
về hòa nhập vào cuộc sống với mọi người, chứ đừng bắt họ kêu án tù tội một
tháng, hai tháng, ba tháng đến một năm, hai năm, ba năm thì rất tội nghiệp cho
họ, cho cha mẹ họ, cho gia đình họ. Và nhất là họ mang tiếng suốt đời là người
trộm, cắp, móc túi, tham lam, hiếp dâm, mãi dâm rất là tội nghiệp. Những hình
phạt trộm, cắp, cướp, giựt, móc túi, tham lam, hiếp dâm, mãi dâm kêu án tù tội
một tháng, một năm hay nhiều hơn nữa v.v…thì không còn hợp với thời đại khoa học
công kỹ nghệ hiện đại hóa tiến bộ của loài người. Những hình phạt này đến giờ
chưa thay đổi e lỗi thời, không hợp với thời đại.
Còn có nhiều
nước bắt được trộm cắp, cướp, giựt, móc túi, tham lam, hiếp dâm, mãi dâm mà
hình phạt khắc chữ vào trán như: Trộm thì khắc chữ “T”, còn cướp giựt thì khắc
chữ “C”. Móc túi thì chặt ngón tay. Hiếp dâm thì thiến. Mãi dâm thì khắc chữ
lên trán “MD” Những hình phạt này rất tội nghiệp và rất thương tâm.
Đạo đức hiếu
sinh không cho phép chúng ta xử phạt như vậy, xin tất cả những nhà lãnh đạo mỗi
đất nước trên thế giới cần xét lại, nên lấy đạo đức hiếu sinh mà trị dân thì
hay biết mấy. Pháp luật và hình phạt phải theo đạo đức mà lập luật, lập pháp
thì nhân bản con người không bị chà đạp. Chính vì chương trình giáo dục đào tạo
đạo đức nhân bản - nhân quả chưa có, chưa được giáo dục đạo đức toàn dân nên họ
không biết vì thế họ mới làm nên tội lỗi, xin những người lãnh đạo đất nước
trên hành tinh này hãy suy xét lại.
3- “Một
trong hai anh em vì quá xấu hổ, nên đã bỏ làng đi biệt xứ. Kể từ đó, chẳng còn
ai biết được tin tức gì về anh ta”. Câu này dạy ĐỨC LY THAM TÀM QUÝ Ý HÀNH, THÂN HÀNH.
Trên đời này
không ai mà không lầm lỗi, nhưng lầm lỗi mà biết xấu hổ, biết cố gắng khắc phục
sửa sai, đừng làm lầm lỗi nữa. Xấu hổ là một đức ly tham tuyệt vời. Có xấu hổ
người ta mới lìa được tâm tham của mình, có xấu hổ người ta mới trở thành con
người tốt được.
Vì quá xấu hổ
nên người anh mới bỏ làng ra đi, và đi không trở về, còn mặt mũi nào nữa mà trở
về làng. Phải không quý vị? Dù bất cứ ở đâu, người anh biết xấu hổ sẽ không bao
giờ làm việc trộm cắp ấy nữa, người xấu hổ là người biết phục thiện. Chỉ có những
người tham lam, trộm cắp, cướp giựt của cải tài sản của người khác; những người
móc túi, hiếp dâm, mãi dâm không biết xấu hổ thì những người đó là những người
vô đạo đức, những người đáng chê trách, đáng để mọi người cần phải có những biện
pháp cưỡng chế giúp đỡ cho học đạo đức, để trở thành người tốt.
Muốn được vậy,
thứ nhất là để bảo vệ xã hội an ninh, trật tự; thứ hai là xây dựng con người tốt,
làm việc tốt, thì những người đầu trộm đuôi cướp đều bị cưỡng chế bắt buộc phải
đi học đạo đức nhân bản – nhân quả, do ngành Công An giữ gìn an ninh trật tự xã
hội đảm trách giảng huấn.
4- “Còn
người thứ hai, vô cùng ân hận, đã ở lại làng và cố gắng hết sức để bù đắp lại
những lỗi lầm của mình. Lúc đầu, mọi người đều e dè và chẳng muốn dính líu gì với
anh ta. Tuy nhiên anh vẫn quyết tâm quán cải ”. Câu này dạy ĐỨC LY THAM QUÁN CẢI
THÂN HÀNH.
Làm người ai
cũng có những sự lầm lỗi, nhưng biết ăn năn hối cải chừa bỏ, biết sửa đổi là một
điều tốt, là một điều đáng khen, như người em ở lại cố gắng khắc phục để trở
thành người tốt. Muốn khắc phục tính tham lam trộm cắp cướp giựt thì chỉ có đức
bố thí. Người có đức bố thí thì tính tham lam sẽ bị triệt tiêu. Đức bố thí có
nhiều cách :
1- Đức bố
thí lời nói an ủi, khuyên lơn, khen tặng.
2- Đức bố
thí hành động, việc làm giúp đỡ.
3- Đức bố
thí của cải tiền tài vật chất, cơm ăn áo mặc.
Những đức bố
thí này giúp cho con người ly tham, nhờ đó không còn tham lam trộm cắp cướp giựt
tài sản của người khác.
Biết được
nhân quả làm thay đổi con người, từ con người xấu ác thành con người lương thiện,
nên đạo Phật ra đời. Ra đời xác định và chỉ rõ bốn chân lí của loài người.
Đó là KHỔ, TẬP,
DIỆT, ĐẠO. Làm con người không ai không ở trong bốn chân lí này. Khi đã hiểu rõ
bốn chân lí, thì mỗi người phải tự xây dựng cho mình một cuộc sống đạo đức, một
cuộc sống thiện, một cuộc sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả
chúng sinh. Đó là một sự làm thay đổi cả thế gian này biến cuộc sống trên thế
gian này thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.
ĐẠO ĐẾ là một
chân lí, nó không phải là một bài pháp BÁT CHÁNH ĐẠO dạy suông, lý luận thường
như các bài kinh khác. Những giảng sư Đại Thừa Bắc Tông và những giảng sư
Nguyên Thủy Nam Tông lấy TỨ DIỆU ĐẾ thuyết giảng như một bài pháp chung chung,
như những bài kinh trong kinh sách Nguyên Thủy.
ĐẠO ĐẾ là một
chương trình giáo dục đào tạo con người có GIỚI LUẬT (đạo đức) sống không làm
khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh trên hành tinh theo phương hướng
GIỚI, ĐỊNH, TUỆ . Phương hướng GIỚI, ĐỊNH, TUỆ gồm có: SƠ THIỆN, TRUNG THIỆN, HẬU
THIỆN.
* GIỚI nói về
đức hạnh của thân hành, ý hành và khẩu hành trong tám lớp học (Bát Chách Đạo)
rèn nhân cách. Những giới luật đức hạnh này là ở giai đoạn SƠ THIỆN.
* ĐỊNH nói về
sự bình tĩnh, tĩnh giác. Bình tĩnh, tĩnh giác có bốn giai đoạn:
1- Tĩnh giác
lúc còn sống
2- Tĩnh giác
lúc sắp chết
3- Tĩnh giác
lúc đã chết
4- Tĩnh giác
lúc xuất thai.
Trên đây là
bốn phương pháp thực hành TĨNH GIÁC trong tám lớp học (Bát Chánh Đạo) để đạt được
định tĩnh trên Tứ Niệm Xứ, ở giai đoạn TRUNG THIỆN.
* TUỆ là trí
tuệ Tam Minh. Trí tuệ Tam Minh là một trí tuệ siêu việt phi không gian và thời
gian, một trí tuệ hiểu biết các pháp trong vũ trụ này, không một pháp nào che dấu
trí tuệ ấy được. Một trí tuệ mà ngoại đạo gọi là thần thông. Còn riêng đạo Phật
gọi nó là giới luật đức hạnh trong giai đoạn HẬU THIỆN.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét