379-RÈN NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH: BÀI LÀM/ 31
ĐOẠN 31: “Thật là hạnh phúc! Vì hạnh
phúc đó mà có đêm không ngủ được, đành gọi điện thoại và xin phép nàng qua
không gian gởi đến mái tóc bạch kim của nàng một nụ hôn đầy những giọt nước mắt
vui. Nàng nói em nhận ngay! Nhận ngay! Nhận ngay… với tiếng cười trong trẻo lạc
quan đã làm cho tôi quên mất đi tuổi gần 80 mà có thêm niềm vui cuộc sống”. Câu
này dạy đạo đức gì?
ĐÁP ÁN: Thiếu Đức Chung Thủy Khẩu Hành.
GIẢI
TRÌNH ÁN: Ở đây
nói về đạo đức, cho nên đoạn văn trên đây xác định ông cụ, bà cụ này thiếu đức
thủy chung, tức là ngoại tình.
Đức chung thủy
không cho phép một người có chồng, có vợ mà còn chia sẻ tình yêu thương ấy cho
người khác, huống là ông cụ kia nói trong điện thoại gửi nụ hôn, bà cụ liền nhận
ngay với một nỗi vui mừng, những hành động ấy thật là lỗi đạo gia đình. Như vậy
trong lời nói hân hoan, trong hành động vui mừng như một chàng trai mới lớn,
như cô thiếu nữ tuổi mới 16 xuân xanh thì thật là không còn chỗ nào phê bình cụ
ông, cụ bà này. Biết rằng mối tình này quá keo sơn gắn bó, nhưng tình cảm như vậy
là lỗi đạo. Vậy mà duyên hôn nhân không có để rồi cụ ông có vợ, cụ bà có chồng,
thật là đau khổ biết chừng nào. Phải không quý vị?
Thà đừng lập
gia đình, mà đã lập gia đình thì đừng lỗi đạo, khi đã lập gia đình thì phải giữ
gìn trọn vẹn mới gọi là tình chồng nghĩa vợ, còn tình cảm đối xử với nhau như vậy
thì làm sao tình chồng nghĩa vợ cho trọn đầy. Nếu cụ bà, cụ ông kia mà biết được
thì không khỏi buồn lòng, không khỏi nghĩ rằng chồng hay vợ mình không còn thủy
chung nữa. Nghĩ như vậy nỗi đau ấy sẽ mãi mãi trong lòng cho đến
ngày chết cũng không tan.
“Nỗi
riêng, riêng những bàng hoàng
Dầu chông
trắng dĩa, lệ tràn thấm khăn”
Để chứng
minh cho một mối tình chung tình và thủy chung, mời quý vị đọc câu chuyện “VÍ
TIỀN”:
“Vào một
ngày lạnh giá, đang trên đường về nhà, bỗng tôi phát hiện một chiếc ví ai đó
đánh rơi. Tôi nhặt lên và mở ra xem. Trong đó chỉ có 3 đôla và một bức thư đã bị
nhăn nhúm, dường như nó đã được để trong ví rất lâu rồi, phong bì đã rách nhưng
tôi có thể đọc được địa chỉ của người gửi. Tôi mở thư ra, hy vọng tìm được một
vài manh mối. Bức thư được viết năm 1924, chữ viết trong thư là chữ con gái, ở
góc phải lá thư màu xanh nhạt này có một bông hoa nhỏ. Đây là một “bức thư tuyệt
tình” viết cho Maiker. Người viết nói, vì mẹ cô ấy ngăn cấm nên cô ấy không thể
gặp lại Maiker. Cô ấy viết, cho dù thế nào cô ấy vẫn sẽ yêu anh ấy, cuối thư ký
tên Hana.
Đây là bức
thư tình cảm và buồn, nhưng ngoài cái tên Maiker ra tôi không thể xác định chủ
nhân của chiếc ví là ai. Tôi hỏi đài thông tin, mong rằng nhân viên ở đó có thể
tra được số điện thoại của Hana qua địa chỉ trên thư. Nhân viên ở đó kiến nghị
với người phụ trách của cô ấy, một lúc sau, người đó nói: “Ồ,
chúng tôi có số điện thoại của địa chỉ đó, nhưng tôi không thể cho bạn”.
Cô ấy nhã
nhặn nói với tôi, cô ấy sẽ gọi điện thoại đến trước để xin phép: “Nếu bà ấy
không đồng ý thì tôi sẽ liên hệ sau”.
Mười phút
sau, người phụ trách quay lại nói với tôi: “Có một phụ nữ muốn nói chuyện với bạn”.
Tôi hỏi người phụ nữ ở đầu dây bên kia, phải chăng cô ấy quen một người tên là
Hana. Cô ấy ngạc nhiên nói: “Ồ! Chúng tôi đã mua lại căn nhà này, con gái của
gia đình họ tên là Hana, nhưng chuyện này cách đây 30 năm rồi!”
“Chị biết
nhà đó bây giờ ở đâu không?”. Tôi hỏi.
“Tôi nhớ vài năm trước Hana đưa mẹ cô ấy tới một viện dưỡng lão”, cô ấy nói: “Nếu như cô liên hệ với bà ấy, có thể cô sẽ biết Hana ở đâu”. Cô ấy cho tôi biết tên của viện dưỡng lão. Tôi gọi điện thoại tới đó, một người phụ nữ nói với tôi bà ấy đã qua đời mấy năm trước rồi, nhưng họ đã cho tôi số điện thoại Hana. Tôi cảm ơn và tiếp tục nhấn điện thoại gọi cho Hana. Hana giải thích bấy giờ bà ấy cũng đang ở trong viện dưỡng lão. Tôi nghĩ mình thật là ngớ ngẩn, vì sao phải phí sức đi tìm một chủ nhân của chiếc ví chỉ có 3 đôla và một bức thư đã được viết gần 60 năm rồi?
Tuy vậy,
tôi vẫn lái xe đến viện dưỡng lão, lúc đó là 10 giờ tối rồi. Cô y tá và người bảo
vệ trực đêm đang đợi tôi ở cửa. Chúng tôi lên tầng 3 của tòa nhà. Trong phòng
khách, cô y tá giới thiệu tôi với Hana. Đó là một bà lão hiền hậu, nét mặt tươi
tỉnh. Tuy mái tóc đã bạc hết, nhưng bà rất nhanh nhẹn và minh mẫn. Tôi kể với
bà ấy về chuyện chiếc ví và cho bà xem thư. Bà nhìn góc bên phải lá thư và thở
dài, rồi nói: “Cô bạn trẻ, bức thư này là mối liên hệ cuối cùng của tôi và
Maiker”. Sau đó, bà ấy nhìn đi chỗ khác như để trấn tĩnh lại và dịu dàng nói:
“Tôi rất yêu anh ấy, nhưng khi đó tôi chỉ có 16 tuổi, mẹ tôi thấy tôi còn quá
nhỏ. Ồ, anh ấy rất là tuấn tú, trông giống diễn viên Vanally”.
“Vâng”,
bà tiếp tục nói: “Maiker là một người rất tốt, nếu như cô tìm được anh ấy, hãy
nói với anh ấy tôi luôn luôn nghĩ về anh ấy và…” Bà ngừng lại một lát, cắn chặt
môi, nước mắt bắt đầu rơi xuống. “Tôi vẫn chưa kết hôn, tôi nghĩ không có ai bằng
Maiker!”. Tôi cám ơn Hana và từ biệt bà ấy, tôi đi thang máy xuống tầng một.
Khi tôi ra đến cổng, người bảo vệ hỏi: “Bà già ấy có giúp chị được gì không?”.
Tôi nói rằng bà ấy đã cho tôi một vài manh mối: “Ít nhất tôi cũng biết được một
chút về họ, nhưng tạm thời tôi sẽ gác lại chuyện này, vì tôi đã mất đúng một
ngày để hỏi ra chủ nhân của chiếc ví này”. Tôi đưa chiếc ví đó ra. Đó là chiếc
ví da màu đỏ và có đai màu nâu giản dị, không có hoa văn. Khi
người bảo vệ nhìn thấy nó, ông ta nói: “Ồ, đợi một chút! Đó là ví của ông
Golds. Bất kể nó ở nơi đâu, chỉ cần nhìn thấy cái màu đỏ tươi đó là tôi có thể
nhận ra ngay. Ông ấy luôn đánh rơi nó, tôi đã từng ba lần phát hiện ra nó ở
trong phòng”.
“Ông
Golds là ai”, tôi hỏi, tay bắt đầu run run.
“Ông ấy
là một ông già ở tầng 8, nhất định đó là ví của ông Maiker Golds, chắc ông ấy
làm rơi khi đi dạo”. Tôi cảm ơn người bảo vệ, rồi chạy nhanh lên phòng làm việc
của y sĩ, kể với cô ta những lời của người bảo vệ. Chúng tôi đi thang máy lên tầng
8, tôi thầm cầu nguyện Golds chưa đi ngủ. Lên đến nơi, cô y sĩ nói: “Tôi nghĩ
ông ấy đang ở trong phòng khác. Ông ấy thích đọc sách vào buổi tối. Đó là một
ông già đáng yêu”.
Chúng tôi
bước vào trong căn phòng duy chỉ có một bóng đèn, ông đang xem sách. Cô y sĩ bước
đến và hỏi ông ấy có bị mất ví tiền không? Golds ngạc nhiên ngẩng đầu lên, sờ
tay vào túi sau: “Ồ, không thấy nó!”
“Chị này
nhặt được một chiếc ví. Chúng tôi nghĩ nó có thể là của ông”.
Tôi đưa
chiếc ví cho Golds. Khi nhìn thấy nó, ông ấy thở phào nhẹ nhõm, cười và
nói: “Vâng, chính là nó! Chắc là chiều nay nó đã rơi ra khỏi
túi tôi, tôi phải cám ơn cô”.
“Không có
gì”, tôi nói: “Tôi cần phải nói với ông một chuyện, vì muốn tìm chủ nhân của
chiếc ví mà tôi đã xem nội dung lá thư”. Nét mặt tươi cười của ông đột nhiên biến
sắc đi: “Cô đã xem bức thư đó rồi sao?”.
“Tôi
không những đã xem thư đó, mà còn biết Hana ở đâu”.
Sắc mặt
ông tái nhợt: “Hana? Cô biết bà ấy ở đâu? Bà ấy còn khỏe không? Bà ấy vẫn còn đẹp
phải không? Xin hãy nói cho tôi”, ông ta cầu khẩn nói.
“Bà ấy rất…
như là lần đầu tiên ông gặp bà ấy”, tôi dịu dàng nói.
Ông già lại
cười, hỏi: “Cô có thể cho tôi biết bà ấy ở đâu không? Ngày mai tôi sẽ gọi điện
cho bà ấy”. Ông ấy nắm tay tôi, tiếp tục nói: “Cô biết không, tôi yêu bà ấy đến
nhường nào, thậm chí khi nhận được bức thư này, cuộc sống của tôi dường như đã
kết thúc. Tôi vẫn chưa kết hôn, vì tôi trọn đời yêu cô ấy!”
“Maiker”, tôi nói, “Hãy đi với tôi”. Chúng tôi đi thang máy xuống lầu 3. Hành lang rất tối, chỉ có 2 ngọn đèn đêm nhỏ chiếu xuống chúng tôi đến phòng khách. Hana đang ngồi một mình xem tivi ở đó.
Cô y sĩ đến
trước bà ta. Maiker và tôi đợi ở cửa, cô y sĩ chỉ vào Maiker nói nhỏ: “Hana, bà
nhận ra người đàn ông này không?”. Bà ấy bỏ kính xuống, nhìn ông lão một hồi rồi
im lặng không nói.
Maiker nhẹ
nhàng ghé sát vào tai bà nói: “Hana, tôi là Maiker, bà còn nhớ tôi không?”. Bà ấy
giật mình: “Maiker! Tôi không dám tin! Maiker! Là ông ư! Maiker của tôi!”. Ông
Maiker từ từ bước đến, họ ôm chặt lấy nhau, cô y sĩ và tôi không ai bảo ai,
chúng tôi đều rơi nước mắt. Chúng tôi lặng lẽ bước ra khỏi phòng.
“Chị thấy
không”, tôi nói, “Ôi! Sự sắp đặt của nhân quả! Nếu như người muốn như thế thì sự
việc nhất định sẽ như thế”.
Khoảng 3
tuần sau, ở phòng làm việc, tôi nhận được điện thoại từ viện dưỡng lão gọi đến:
“Cô có rỗi vào chủ nhật để tham dự hôn lễ của chúng tôi không?”.
Hôn lễ được tổ chức rất náo nhiệt. Tất cả mọi người ở viện dưỡng lão đều trang điểm đẹp đẽ và chúc mừng cho họ. Hana mặc chiếc váy màu trắng ngà trông rất đẹp. Maiker mặc bộ Comlê màu xanh nhạt đứng rất oai nghiêm. Họ yêu cầu tôi làm phù dâu. Viện dưỡng lão dành cho họ một phòng đôi, cô dâu 76 tuổi và chú rể 79 tuổi.
Hai người
giống như thời mười tám đôi mươi. Một tình yêu đã được giữ gìn trong suốt 60
năm, cuối cùng cũng có một kết quả hoàn mỹ”.
KẾT LUẬN
VÀ ÁP DỤNG: Đạo
đức gia đình là một nền đạo đức nhân bản thiêng liêng của con người, mà trách
nhiệm và bổn phận con người cần phải hiểu biết rõ ràng. Bởi gia đình là một nơi
gói gọn tình yêu thương chân thật của những thành viên trong gia đình đó, cho
nên sự đối xử với nhau phải chân thành, không những lòng chân thành mà còn phải
có sự kính trọng và tôn quý lẫn nhau nữa. Từ những hành động đến
lời nói phải nhẹ nhàng êm dịu, ôn tồn nhã nhặn, nghiêm chỉnh chứ không được nói
những lời bông đùa, suồng sã, đùa cợt giỡn hớt. Nếu lời nói hay hành động không
nghiêm trang thì sẽ lờn mặt và sau này sẽ mất sự tôn trọng và cung kính nhau.
Cho nên người nào đã có gia đình hay muốn lập gia đình thì nên thông suốt đạo đức
gia đình là một phương pháp đối xử nhau, để đem lại sự bình an, yên vui; để đem
lại cho cuộc sống gia đình ngày càng êm ấm và hạnh phúc; để đem lại bên nhau
mãi mãi với những đức hạnh chung tình và chung thủy, đến khi đầu bạc răng long
mà tình yêu thương ấy không phai nhòa, luôn luôn lúc nào cũng gắn bó bên nhau.
Đấy mới gọi là đạo đức gia đình.
Điều cần thiết
và quan trọng trong cuộc sống gia đình là phải biết cung kính và tôn trọng lẫn
nhau, nếu thiếu điều này gia đình sẽ khó an vui và hạnh phúc. Các con có nhớ
không?

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét