418-LÒNG YÊU THƯƠNG TẬP 1: LÒNG THƯƠNG YÊU BÈ BẠN CỦA BÁ NHA TỬ KỲ/
2
- Đại
nhân nói như thế là sai rồi! Đại nhân nghe câu: “Thập thất chi ấp, tất hữu
trung tín” đó sao? (Trong cái ấp mười nhà ắt có người trung tín). Trong nhà có
người quân tử ở thì ngoài cửa có người quân tử đến. Vả lại, nếu Đại nhân khinh
rằng trong chốn núi non quê mùa không có người biết nghe nhạc,
thì tiếng đàn tuyệt diệu của Đại nhân cũng không nên gảy lên ở đây làm gì?”
Một bài học
đạo đức đã làm sáng mắt Bá Nha, đừng khinh chê mọi người là ngu dốt, chỉ có một
mình là trí tuệ thông minh, văn hay chữ tốt.
“Nghe câu
trả lời ấy, Bá Nha hơi ngượng, biết mình đã lỡ lời, liền vội vã bước ra trước
mũi thuyền hỏi:
Giọng nói
trên bờ vẫn bình thản vọng xuống:
- Đó là
khúc “Khổng Vọng Vi”, than cái chết của Nhan Hồi, nhưng vì bị đứt dây nên mất một
câu chót. Khúc ấy như sau :
“Khả tích
Nhan Hồi mệnh tảo vương
Giáo nhân
tư tưởng, mấn như sương!
Chỉ nhân
lậu dạng, đan, biểu lạc,”
Dịch:
“Khá tiếc
Nhan Hồi sớm mạng vong
Tóc sương
rèn đúc lấy nhơn tâm!
Đan, biểu
ngõ hẹp vui cùng đạo,”
Còn khúc
chót như sau:
“Lưu đắc
hiền danh vạn cổ cương”.
Dịch:
“Danh tiếng
lưu truyền vạn cổ niên”.
Tử Kỳ là một
tiều phu đốn củi, đổi gạo nuôi cha mẹ già yếu trong sơn lâm cùng cốc, nhưng là
một học giả nghiên cứu thâm sâu các kinh sách Nhạc, Lễ, Tứ Thư, Ngũ Kinh của
Nho giáo đều thông suốt, cho nên khi nghe Bá Nha nói đã chỉnh ngay liền, khiến
Bá Nha sượng sùng. Từ lâu trong thâm tâm, Bá Nha tưởng mình là người thông suốt,
không ngờ gặp một gã tiều phu còn thông suốt hơn mình. Nhưng Bá Nha là người biết
trọng người tài, nên khi nghe Tử Kỳ đối đáp thì không đố kỵ mà còn mến phục:
“Bá Nha
nghe xong lòng phấn chấn vui mừng, vội vã sai kẻ tùy tùng bắc cầu lên bờ để
triệu thỉnh người lạ mặt xuống thuyền tâm sự.
Bọn đầy tớ
tuân lệnh, song bọn này là những đứa phàm tục, những con mắt thịt ấy đâu phân
biệt được kẻ quí người hiền, chúng quen thói xua bợ, hễ thấy người sang trọng
thì thưa bẩm, thấy kẻ nghèo khó thì khinh bỉ, thấy chủ mình sai đòi một người
tiều phu nón lá, áo vả, tay cầm đòn gánh, lưng giắt búa cùn, chân đi giày cỏ,
chúng lên mặt hống hách, nạt nộ:
- Hãy đi
xuống thuyền ngay, và phải giữ lễ! Hể thấy lão gia phải sụp lạy, lão gia có hỏi
gì thì phải lựa lời mà nói, kẻo mất đầu đó!
Người tiều
phu vẫn thản nhiên như không nghe lời nói của chúng, từ từ bước xuống thuyền, bỏ
đòn gánh và chiếc búa cùn nơi mũi thuyền, rồi bước vào yết kiến Bá Nha.
Trông thấy
Bá Nha, người tiều phu chỉ xá dài mà không lạy.
Bá Nha thấy
thế cũng ngạc nhiên, song cũng đưa tay chào đón, nói:
- Thôi,
xin hiền hữu miễn lễ cho.
Rồi như
muốn thử tài năng người tiều phu xem thực chất đến đâu, Bá Nha sai đồng tử nhắc
ghế mời tiều phu ngồi lại bên mình và hỏi:
- Hiền hữu
biết nghe đàn, chắc là biết ai chế ra cây Dao cầm, và biết chơi đàn có những
thú gì chớ?
Người tiều
phu mỉm cười đáp:
- Đại
nhân đã hỏi đến, chẳng lẽ tiểu dân không nói ra những cái mình biết. Xưa kia
vua Phục Hy thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng, và chim Phượng Hoàng đến
đó đậu, nhà vua biết ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có
thể dùng nó chế làm nhạc khí được, liền sai người hạ xuống cắt làm ba đoạn. Đoạn
ngọn tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng
vừa trong vừa đục, có thể dùng được. Vua bèn đem ngâm nơi giữa dòng nước chảy bảy
mươi hai ngày, đoạn đem phơi trong mát chờ cho thật khô, lựa tay thợ khéo là
Lưu Tử Kỳ chế thành cây Dao cầm.
Dao cầm
dài ba thước, sáu tấc, một phân, án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt
trước rộng tám tấc án theo tám tiết; mặt sau rộng bốn tấc, án theo bốn mùa; bề
dày hai tấc án theo lưỡng nghi.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét