427-LÒNG YÊU THƯƠNG TẬP 1:
LÒNG THƯƠNG YÊU CỦA THÁNH MAHATMA GANDHI/ 4
Ông Gandhi
nói rất đúng, khi một nước khác đến cai trị nước mình, chính những người dân
trong nước mình ham mê danh làm ông này, bà kia và những vật chất của nước
ngoài như máy móc, xe cộ nên mới bị người nước ngoài cai trị.
Trong thời
Pháp cai trị đất nước chúng ta cũng vậy, người nào được học trường Tây, vào dân
Tây là hãnh diện nhất. Đó là những người bán nước cho giặc, làm tay sai cho giặc
mà không biết, còn lấy làm hãnh diện, thật là nhục nhã!
“Ông lựa
một khu đất trên bờ sông Sabarmeti, một nơi ẩm thấp, bùn lầy của đám dân nghèo
khổ ngoại ô thành phố Ahmédabad, cất một căn nhà nhỏ làm nơi luyện tinh thần và
truyền giáo. Ông sống một đời khổ hạnh như một nhà tu hành: Phòng chật hẹp như
một buồng giam; ngày nắng như thiêu thì ông khiêng bàn ra giữa trời làm việc;
đêm lạnh như cắt, ông cũng ngủ ở giữa trời. Ông đã bỏ nghề luật sư và sống xa
bà vợ, ngoài những giờ đọc kinh Ghita, ông diễn thuyết hô hào đồng bào giải
phóng tổ quốc. Ông chỉ ăn trái cây và uống sữa dê. Chỉ bận một
chiếc phá bằng vải trắng, mình để trần”.
Dù ông là một
nhà đại cách mạng, đấu tranh đem lại quyền lợi cho dân tộc Ấn, nhưng ông không
quên mình là một nhà tu hành theo Ấn Giáo, nên lối sống của ông rất đơn giản,
xa lìa những cám dỗ của cuộc đời.
“Ông chủ
trương rằng phong trào giải phóng phải phát khởi từ nơi thôn dã, nghĩa là phải
đào luyện tri thức và tinh thần của dân quê trước hết, và phải dạy cho họ đoàn
kết với nhau.
Đoàn kết
dân tộc Ấn độ, việc đó mới khó khăn làm sao! Về chính trị, xứ đó chia thành
hàng trăm tiểu bang, tuy cũng thuộc quyền cai trị của người Anh, mà mỗi tiểu
bang có một chế độ khác nhau.
Về tôn
giáo thì cũng có cả chục tôn giáo, mà hai tôn giáo lớn là đạo Bà La Môn và đạo
Hồi thì chống nhau kịch liệt.
Về xã hội cũng chia làm nhiều giai cấp: bọn quý phái sống trụy lạc trong cung điện, hết đi săn bắn thì thưởng thanh sắc; bọn tu hành Bà La Môn tuy không có quyền hành nhưng uy thế rất mạnh; dưới nữa là hạng thương nhân, công nhân và nông dân; sau cùng là hạng tiện dân.
Khắp thế giới, từ cổ đến kim, không có hạng dân nào lại bị khinh bỏ như hạng tiện dân đó. Họ đông tới sáu chục triệu người, và người Âu gọi họ là hạng “không ai dám chạm tới” (intouchable). Bạn thử tưởng tượng bạn sinh ở Ấn Độ. Và hai ngàn năm trước tổ tiên bạn ở giai cấp tiện dân, thì ngày nay bạn cũng phải là một tiện dân, bị coi là dơ dáy từ tâm hồn đến thể xác. Bạn không có quyền được múc nước giếng trong làng; có khát thì ra ngoài rãnh, ngoài mương, vốc nước lên mà uống. Bạn không có quyền được vô một tiệm nào; muốn mua gì thì đứng ở ngoài đường rồi chủ tiệm liệng đồ ra cho. Bạn không được vô chùa của các giai cấp khác, không được vô trường học, mà cũng không được vô toà án nữa. Trong làng, bạn phải ở tại một khu riêng biệt, tất nhiên là bẩn thỉu nhất. Trong châu thành, khu tiện dân của bạn phải có tường cao bao kín bốn bề để khỏi lây qua những khu khác. Một người Ấn nào lỡ chạm phải bạn thì họ khạc, nhổ, về nhà tắm rửa ngay, chay tịnh và làm lễ tẩy uế. Chỉ chạm vào cái bóng của bạn họ cũng thấy nhơ nhớp nữa, cho nên có những con đường bạn không có quyền được đi. Và nếu bóng của bạn in lên một chén cơm của họ thì họ đổ chén cơm đó đi liền.
Đó tình cảnh
chia rẽ của Ấn Độ về chính trị, tôn giáo, xã hội như vậy. Lại thêm người Anh
dùng chính sách hiểm độc “chia để trị”, luôn luôn tìm cách tưới dầu thêm vào lửa,
cho sự phân chia bùng lên nữa. Hiểu như vậy rồi. Bạn mới thấy công việc của
Gandhi khó khăn làm sao.
Tháng 5
năm 1918, ông bắt đầu đả đảo tinh thần phân chia giai cấp và bênh vực hạng tiện
dân. Nhà ông là nơi diễn thuyết, nơi tụ hợp của hạng trí thức, quyền thế. Vậy
mà ông cho một gia đình tiện dân đến trú ngụ. Người ta nhao nhao lên phản đối.
Nhiều phú thương Ấn trợ cấp cho ông, họ không gửi tiền nữa. Khi hết tiền, đồ đệ
ông hỏi ông phải làm sao? Ông đáp:
- Thì Thầy
trò mình vào sống chung với những người tiện dân, chứ sao?
Chính bà
vợ cũng phản đối ông, nhưng ông thuyết phục được.
Ít lâu
sau, ông nhận con một người tiện dân làm con nuôi, gọi những người tiện dân là
“những con cưng của Thượng Đế”. Ông thường cầu trời kiếp sau được tái sanh làm
tiện dân để chia sẻ nỗi buồn tủi của hạng người chịu sự bất công do thành kiến
xã hội đó. Có lần, nghe những lời chỉ trích của bọn thiển cận,
ông bực mình thốt: “Nếu quả thực tôn giáo chúng ta bắt chúng phải coi hạng tiện
dân, đồng bào của chúng ta, như súc vật, thì tôi xin ruồng bỏ đạo tôi”. Nhưng đại
đa số quần chúng đều cảm phục tâm hồn cao thượng của ông. Ông đi tới đâu người
ta cũng bu lại, xin ông ban phước, xin được hôn chân ông. Có kẻ nằm rạp xuống đất,
hôn vết chân trên cát. Và danh từ MaHa mà thi hào Rabindranath Tagore, người được
giải thưởng Nobel về văn thơ năm 1913, đã tặng ông đầu tiên, nay được toàn thể
dân Ấn dùng, rồi sau này được khắp thế giới dùng. Thế là từ hồi Đức Thích Ca đắc
đạo đến nay, nhân loại được thêm một vị thánh sống nữa, và cả hai đều sinh ở xứ
Ấn Độ huyền bí!”

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét