431-LÒNG YÊU THƯƠNG TẬP 1:
LÒNG THƯƠNG YÊU CỦA THÁNH MAHATMA GANDHI/ 8
Lúc đó, sự
tranh chấp cổ truyền giữa hai dân tộc Ấn - Hồi lại xuất hiện, mà phong trào bất
hợp tác cũng xuống nhiều. Một số luật sư đã mở lại văn phòng, học sinh xin vô đại
học. Một nhóm cách mạng Ấn thấy vậy, chuyển hướng tranh đấu, từ tiêu cực qua
tích cực, đòi Anh phải ban hành chế độ tự trị. Muốn khỏi có sự chia rẽ, ông phải
thỏa thuận với nhóm đó, nhưng sau thấy khó hợp tác với họ được, ông quyết lánh
khỏi trường chính trị trong một thời gian, trở về hô hào sự đoàn kết giữa Ấn -
Hồi và sự bất hợp tác với Anh.
Muốn cảm
hoá các đồng bào Ấn và Hồi, ông tuyên bố nhịn đói hai mốt hôm. Lần nhịn đói đó
là lần thứ nhì. Lần trước xảy ra vào hồi đại chiến thứ nhất. Ông lãnh đạo một
cuộc bãi công trong các xưởng dệt ở thành Ahméda Bad để đòi tăng lương cho thợ.
Sau một thời gian thợ nản chí. Nhiều kẻ đã lén lút phá rào, trở
lại việc làm, ông ngại phong trào sẽ thất bại, quyết tuyệt thực để thợ giữ lời
hứa, kiên nhẫn tranh đấu tới khi thắng lợi. Lần đó ông chỉ nhịn ăn ba ngày, và
sự xích mích giữa chủ và thợ được giải quyết xong.
Lần này,
sức ông đã suy, ông 55 tuổi mà lại quyết nhịn ăn luôn 21 hôm. Tôi không hiểu
làm sao một người gầy ốm như ông, bao nhiêu năm vất vả như vậy mà có sự chịu đựng
bền bỉ đến mực đó! Trong 21 ngày, ông chỉ uống nước lạnh hoặc nước muối, mà vẫn
tiếp khách, vẫn viết báo! Ngày thứ 20, ông cầu nguyện thượng đế: “Hỡi đấng cao
cả, xin Ngài làm cho tôi trở nên một vật hữu dụng của Ngài, cho tôi linh cảm được
ý của Ngài để tìm phương châm hành động”.
Đối với giặc
như thực dân Anh thì Gandhi thành công không mấy khó khăn, nhưng điều khó khăn
nhất là nhân dân Ấn chia rẽ thì rất khó hàn gắn và hòa hợp vô cùng.
Thực dân Anh
rất khôn ngoan, lợi dụng Ấn - Hồi chia rẽ thì chúng tìm mọi cách chia rẽ thêm,
làm cho sự chia rẽ càng thêm trầm trọng.
Ba lần tuyệt
thực để kêu gọi Ấn - Hồi đoàn kết, nhưng ông đều thất bại. Do sự
chia rẽ này mà ông bị nhóm quá khích hạ sát ông. Tuy ông mất,
nhưng lòng yêu thương dân tộc không bao giờ mất.
Ông mất đi
nhưng lòng yêu thương dân tộc ông, tổ quốc ông và những người cai trị làm hại
ông và đồng bào dân tộc ông không mất. LÒNG YÊU THƯƠNG ấy vẫn mãi mãi đi vào
lòng người.
“Ngày thứ
21, đúng 12 giờ trưa, ông gọi bạn hữu, đồ đệ lại bên giường, yêu cầu đọc cho
nghe một đoạn kinh Coran, một bản thánh ca và vài bài kinh khác. Nghe xong, ông
cất giọng khuyên nhủ mọi người, rồi nhấp một chén cam tươi. Ai nấy đều vui vẻ,
thấy ông đã qua được lần tuyệt thực đó.
Cuộc tuyệt
thực đó không có kết quả khả quan. Năm 1924, kinh tế sau chiến tranh đã phục
hưng lên, người ta ham vật chất mà tinh thần quần chúng càng xuống. Ông phải đi
cổ động để củng cố tinh thần đó.
Suốt năm
1925, ông đi lại khắp nơi tiếp xúc với dân chúng. Từ những miền hẻo lánh, hàng
vạn hàng ức người nghe ông sắp đến là bỏ cả công ăn việc làm, ùn ùn kéo nhau tới
để chiêm ngưỡng ông. Tới đâu ông cũng cổ động sự dệt lấy vải mà bận. Ông biết rằng
phong trào đó không có kết quả lớn về kinh tế, nhưng ông cũng
phát động để dân chúng nhận thấy giá trị những vật chính tay họ tạo nên, mà phẫn
uất trước sự xa hoa của những kẻ bám vào người Anh mà bóc lột đồng bào, sống
trên xương máu đồng bào.
Năm 1929,
Chính Phủ Anh gửi phái đoàn Jonh Simon qua Ấn để nghiên cứu vài điều cải cách.
Phái đoàn không cho người Ấn dự trong việc tìm một giải pháp về chính thể tương
lai, nên bị toàn quốc tẩy chay. Người Anh đàn áp các nhà ái quốc. Gandhi cùng
các đảng viên Đảng Quốc Đại như Chandra Bose, Nehru tuyên bố rằng, nếu cuối năm
1929 Ấn không được tự trị thì sẽ phát động phong trào độc lập.
Tới tháng
hai năm sau, vẫn chưa có gì thay đổi, Gandhi bèn hô hào dân chúng bất hợp tác,
không đóng thuế, trước hết là không nộp thuế muối.
Ngày 12
tháng 3, ông dắt 70 người đồ đệ đi từ Saharmati đến bờ biển phía nam. Đoàn người
đi 24 ngày, được 200 dặm, tới đâu dân chúng cũng xin gia nhập đoàn, và khi đến
biển thì đã thành một đạo quân không bạo động, đông tới hàng trăm ngàn người.
Trong 24 ngày đó, khắp Ấn Độ, khắp thế giới đều hướng cả về cuộc
lữ hành của ông, tự hỏi ông sẽ làm gì đây.
Sáng ngày
mồng 6 tháng 4, sau khi cầu nguyện, ông ra hiệu lệnh rồi ra bờ biển vớt muối. Cử
chỉ đó có ý nghĩa tượng trưng rằng người Ấn có toàn quyền thổ sản thiên nhiên
Trời phú cho, và luật pháp Anh không thể ngăn cấm nổi.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét